(Phần 1)

 

II. Phân tích Công hàm của Phi-líp-pin

PGS. TS. Nguyễn Hồng Thao

Tại sao Philippin lại lên tiếng vào thời điểm này và Công hàm của Philippin có những đóng góp gì mới cho tiến trình giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Đối với 2 câu hỏi này, tôi có đã sơ bộ tìm hiểu như sau:

1.  Vì sao Philipin lên tiếng?

So với Việt Nam và Trung Quốc, Philippin nhảy vào tranh chấp quần đảo Trường Sa muộn và yêu sách đưa ra được dựa trên những cơ sở pháp lý không đủ mạnh. Philippin cũng không phải là quốc gia có tiềm lực về quốc phòng và thường phải dựa trên cái ô của Mỹ. Năm 1951, Philippin mới bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng ảnh hưởng ra quần đảo Trường Sa. Năm 1995, Philippin là nước thứ hai trong khu vực phải nếm trải sức mạnh quân sự của người khổng lồ phương Bắc. Philippin đã tích cực đưa ra nhiều đề xuất giải quyết hòa bình các xung đột từ đưa tranh chấp ra trước Tòa án quốc tế đến sáng kiến ký Bộ Luật ứng xử Philippin-Trung Quốc tháng 8/1995, rồi đồng tác giả với Việt Nam dự thảo Bộ luật ứng xử ASEAN-Trung Quốc 1999-2002, ký két Tuyên bố ASEAN-Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông 2002, chương trình hợp tác nghiên cứu khoa học Việt Nam-Philippin JOMRSE...

Các động thái của Philippin phần nào cho thấy sự e ngại và phụ thuộc vào người khổng lồ phương Bắc. Thế nhưng sự nhún nhường hay đi đơn lẻ của Manila không ngăn nổi các hoạt động ngày càng cứng rắn của Trung Quốc trước Chính phủ mới của TT Benigno Aquino, thay thế TT Arroyo, người được đánh giá thân Bắc Kinh. Sau vụ hai tàu hải quân Trung Quốc xua đuổi một tàu thăm dò dầu khí cho Philippines ở vùng Bãi Cỏ Rong tháng 3/2011 mà Manila xác định là thuộc chủ quyền của mình đến 30/3/2011 là án tử hình Bắc Kinh giành cho  ba công dân Philíppin vì tội buôn lậu ma túy. Một tháng trước cuộc thăm chính thức của TT Philippin tới Bắc Kinh ngày 23-25/5/2011 là dịp để Philippin khẳng định quan điểm độc lập của mình trước sức ép của Trung Quốc, tạo thế chủ động trong hội đàm? Đồng thời sự “cứng lên” của Philippin cũng nhằm giải quyết phần nào những bất đồng nội bộ trong nhìn nhận một số vấn đề quốc tế như việc gộp hay không KIG vào đường cơ sở quần đảo. Philippin đang cần năng lượng trong đó dầu khí ở Bãi Cỏ Rong được coi là niềm hy vọng. Philippin thấy rằng quyền lợi của mình chỉ có thể được bảo đảm trong tình đoàn kết với các nước ASEAN. Hơn nữa quan hệ Manila và Washington ngày càng chặt chẽ trở lại, đặc biệt là trong lãnh vực quân sự. Nguyên tắc “Đất thống trị biển” được nhắc đến trong Công hàm ngày 5/4/2011 của Philippin và Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tại ARF 17, Hà Nội  2010 là cùng nội dung với cách thể hiện khác nhau.

Sau Công hàm của Việt Nam, Malaysia ngày 8/5/2009, của In-đô-nê-xi-a ngày 8/7/2010, Philippin đã hòa chung tiếng nói của các nước ASEAN trong việc bác bỏ đường lưỡi bò vô lý trong Biển Đông. Đây cũng là dịp Philippin điều chỉnh lập luận của mình cho phù hợp với luật quốc tế và tránh những sai lầm chiến lược trong quá khứ. Nếu đến hạn ngày 13/5/2009, Philippin cùng tham gia trình hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa với Malayssia và Việt Nam hay trình hồ sơ riêng thì vị thế của Philippin đã khác. Philippin cũng nhìn nhận thấy rằng chỉ có Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 mới là công cụ hợp pháp và duy nhất để giải quyết các vấn đề trên Biển Đông, bảo đảm lợi ích công bằng cho các nước trong đó có Philippin. 

2.  Phân tích Công hàm ngày 5/4/2011

Công hàm có mục tiêu rõ ràng là bình luận về tấm bản đồ đính kèm Công hàm số CML/17/2009 và CML/18/2009 ngày 7/5/2009 của Phái đoàn thường trực CHND Trung Hoa. Công hàm Philippin đưa ra ba điểm: (i) Nhóm đảo KIG là một phần không tách rời của Philippines, rằng nước này có chủ quyền và quyền tài phán với các đặc trưng địa chất trong Nhóm đảo Kalayaan KIG đó; (ii) Philippin, theo nguyên tắc đất thống trị biển, thực hiện chủ quyền và quyền tài phán một cách cần thiết trên vùng nước xung quanh hoặc kế cận đối với mỗi đặc trưng địa chất liên quan trong Nhóm đảo Kalayaan KIG theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Phạm vi của các vùng nước kế cận các đặc trưng địa chất có liên quan được định nghĩa và xác định theo UNCLOS, đặc biệt điều 121 Chế độ các đảo; (iii) Chính vì các vùng nước kế cận các đặc trưng địa chất có liên quan được định nghĩa và là đối tượng của các tiêu chuẩn pháp lý và kỹ thuật nên yêu sách của CHND Trung Hoa tại hai Công hàm số CML/17/2009 và CML/18/2009 ngày 7/5/2009

Phân tích ba điểm đã nêu trong Công hàm ngày 5/4/2011 của Philippin có thể đi đến những nhận xét sơ bộ sau:

1.  Philippin tái khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với các đặc trưng địa chất trong Nhóm đảo Kalayaan KIG  được coi là một phần không tách rời của Philippines. Tuy nhiên tuyên bố lần này có những khác biệt với các văn bản trước. Thứ nhất, trong Sắc lệnh năm 1978, Philippin yêu sách: “ nhóm đảo KIG... bao gồm tất cả đáy biển, lòng đất dưới đáy biển, rìa lục địa và vùng trời sẽ thuộc và là đối tượng của chủ quyền của Philippin. Khu vực này tạo thành một quận riêng và tách rời của thủ phủ của tỉnh Palawan và được biết với tên gọi Kalayaan”, nghĩa là toàn bộ các đảo và các vùng nước nằm trong ranh giới KIG tự vạch với đầy đủ các tọa độ. Công hàm ngày 5/4/2011 chỉ yêu sách chủ quyền của các đảo đá như một phần không tách rời của Phillipin, Vấn đề vùng nước được tách rời ra và theo logic của những điểm tiếp theo, sẽ chỉ có một phần vùng nước trong ranh giới cũ của KIG chứ không phải toàn bộ vùng nước trong đó được yêu sách. Điều này được bổ sung bằng điểm 2 của Công hàm giúp phân biệt hai vấn đề: chủ quyền và quyền tài phán đối với các đặc trưng địa lý và chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền đối với các vùng biển. Nó sẽ giúp cộng đồng thế giới hiểu rõ hơn về hai dạng tranh chấp đảo và biển ở Biển Đông mà Philippin là một bên yêu sách. Thứ hai, thuật ngữ “đảo” trong Sắc lệnh 1978 đã được thay bằng “đặc trưng địa chất” có thể hiểu bao gồm đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm để phù hợp với giải thích quy chế đảo trong điều 121 của UNCLOS. Thứ ba, quốc gia quần đảo này không nhắc đến các lý do về tính tiếp giáp hay an ninh quốc phòng làm cơ sở cho yêu sách của mình đối với các vùng nước  như trong Sắc lệnh 1978. Thứ tư, ranh giới của KIG cũng không được nhắc lại. Điều này sẽ liên quan đến phân tích trong điểm 2 tiếp theo.

2.   Philippin đã có bước chuyển khi nhấn mạnh nguyên tắc “Đất thống trị biển” để yêu sách các vùng biển. Nguyên tắc này đã được khẳng định bởi Tòa án quốc tế trong Vụ thềm lục địa Biển Bắc  năm 1969 và thực tiễn tài phán cũng như thực tiễn quốc tế. Nó cũng được thể hiện rõ trong tinh thần của điều 2, 55, 76 của UNCLOS. Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra vùng biển tiếp liền mà phạm vi vùng biển đó do UNCLOS quy định với sự thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế. Có nghĩa chỉ khi quốc gia xác lập được chủ quyền trên đất thì chủ quyền đó mới mang lại các quyền được mở rộng ra trên biển mà không phải ngược lại: vẽ một đường yêu sách trên biển và cho rằng tất cả những gì trong đó là thuộc chủ quyền của mình. Các vùng biển xung quanh hoặc kế cận với các đặc trưng địa chất trong quần đảo Trường Sa là lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận của các Bên tranh chấp khi xác định quy chế của từng đảo đá theo điều 121 của UNCLOS. Ngay trong phần mở đầu của Điểm 2 Công hàm, Philippin nói về vùng nước tiếp giáp của các đảo và các đặc trưng địa chất (ở đây là cách ám chỉ các đá theo điều 121.3 của UNCLOS và các bãi cạn nửa nổi nửa chìm ?). Tiếp đó việc sử dụng các từ “vùng nước xung quanh” và “vùng nước tiếp giáp”. Từ  thực tế quần đảo Trường Sa, nếu đảo đá muốn có vùng nước xung quanh trọn vẹn thì đó chỉ có thể là lãnh hải 12 hải lý. Khái niệm “vùng nước tiếp giáp” ở đây có thể được hiểu là lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế tiếp giáp với các đảo tùy theo từng trường hợp và không phải là vùng nước xung quanh. Như vậy ngay trong ranh giới cũ của KIG mà Manila yêu sách chủ quyền sẽ có khả năng giữa các đảo đá có tồn tại các vùng biển thuộc chủ quyền (lãnh hải), quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán (đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa) của một (hay nhiều) quốc gia ven biển khác. Một cách đơn giản, Công hàm Philippin thể hiện quan điểm tách biệt hai dạng tranh chấp: tranh chấp chủ quyền và tranh chấp vùng biển. Trong tranh chấp vùng biển, tùy thuộc vào quy chế đảo mà các bên có thể chấp nhận sẽ tồn tại ba khả năng: 1) các đảo đá của KIG chỉ có lãnh hải 12 hải lý; 2) các đảo đá này có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; 3) một số đảo đá chỉ có lãnh hải và một số đảo đá khác có thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Từ đó, các đảo ở KIG có thể được gộp vào đường cơ sở quần đảo mở rộng của Philippin hoặc chúng được tách riêng và quản lý theo quy chế đảo hoặc đá theo Luật đường cơ sở ngày 10/3/2009 tùy thuộc từng đặc trưng địa chất này có được chỉ lãnh hải 12 hải lý hay có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý hoặc thềm lục địa riêng. Là  quốc gia quần đảo duy nhất trong tranh chấp và lại ở gần các vị trí đảo tranh chấp nhất. Philippin có lý do để tận dụng vị thế đó nhằm kéo các đặc trưng địa chất KIG vào đường cơ sở quần đảo. Thê nhưng nếu theo đúng các quy định pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS tỷ lệ nước trên đất của KIG sẽ lớn hơn 9:1. Thể hiện theo điểm  2 sẽ giúp Philippin trang trải được những cuộc tranh cãi nội bộ,mâu thuẫn giữa tình cảm chủ nghĩa dân tộc và lý trí cần tuân thủ UNCLOS. Chấp nhận nguyên tắc đất thống trị biển có nghĩa là Philippin phủ nhận tất cả các đường yêu sách không dựa trên các quy định pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS  Điều này đúng với đường yêu sách lưỡi bò của Trung Quốc cũng như đường yêu sách của Malaysia và chính đường ranh giới KIG của Philippin. Các đường này là không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Đến đây có thể hiểu tại sao Philippin không nhắc lại ranh giới KIG mà chỉ là các địa trưng địa chất trong KIG. Tuy nhiên, sẽ có sự mâu thuẫn trong điểm 1 và 2 của Philippin. Đưa ra ranh giới là một biện pháp kỹ thuật để nêu yêu sách các đặc trưng địa chất trong phạm vi đó mà không cần phải liệt kê tên từng đảo đá và quy chế của chúng. Bác bỏ ranh giới thì đặc trưng địa chất nào Manila yêu sách vẫn sẽ là câu hỏi. Khác với Việt Nam và Malaysia gián tiếp thể hiện các đặc trưng địa chất của quần đảo Trường Sa nên có lãnh hải 12 hải lý, Manila vẫn duy trì một sự không rõ ràng nhằm trù tính cho những bước đi chưa hình dung được trong tương lai. Song việc tuân thủ nguyên tắc “đất thống trị biển” đã có thể coi là một bước tiến rất gần với nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm hữu thực tế và tinh thần duy trì status quo trong Tuyên bố DOC 2002 giữa ASEAN – Trung Quốc vì ổn định, hòa bình, và hợp tác phát triển ở Biển Đông.     

3.  Trong Điểm 3 của Công hàm, Philippin dẫn ra kết luận logic mà chúng ta có thể suy ra được ngay từ Điểm 2. Nếu theo đúng luật quốc tế và UNCLOS thì đường đứt khúc 9 đoạn và mọi đường yêu sách khác không đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS đều không có cơ sở pháp lý để tồn tại. Công hàm nhắc đến hiệu quả của kết luận này đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và thềm lục địa của chúng" bên ngoài  các đặc trưng địa chất nói trên trong Nhóm các đảo Kalayaan KIG và các vùng nước kế cận của chúng” Điều này không có nghĩa là Philippin chỉ phản đối một phần đường lưỡi bò liên quan trực tiếp đến Nhóm đảo KIG mà toàn bộ đường lưỡi bò trong Biển Đông. Do chưa thể xác định được tên cụ thể của các đặc trưng địa chất trong ranh giới cũ của Nhóm đảo KIG cũng như quy chế của các đặc trưng địa chất này (chỉ có lãnh hải, hay có lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng) nên vấn đề phân định biển giữa các quốc gia ở Biển Đông cũng chưa thể được giải quyết. Công hàm Philippin không nói đến hiệu lực của các đặc trưng địa chất “nằm ngoài KIG” như đảo Trường Sa. Tuy nhiên trong logic của nguyên tắc “Đất thống trị biển” và các yêu cầu pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS mà Philippin thừa nhận trong điểm 1 và 2 thì đảo Trường Sa cũng là một đặc trưng địa chất giống như các đặc trưng địa chất khác của quần đảo và phải được xem xét theo quy chế của điều 121.3  Trong trường hợp tối thiểu các đảo đá ở quần đảo Trường Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý thì các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo trong khu vực này sẽ phải bàn nhau về việc xác định hay phân chia ranh giới ngoài thềm lục địa có khả năng mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo hoặc 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2500m. Trong trường hợp này, Philippin sẽ hơi bị yếu thế do sự hiện diện của máng sâu Palawan ở phía Tây. Trong trường hợp tối đa, một số đảo có thể có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa thì việc phân định biển sẽ phải tính đến khoảng cách từ điểm đó đến bờ biển của quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo tùy thuộc đảo đó được xác định chủ quyền thuộc bên nào. Các vùng biển này có bản chất pháp lý từ nguyên tắc “Đất thống trị biển” phù hợp với các điều 3,4 (Lãnh hải), 55, 57 (đặc quyền kinh tế) và 76 (thềm lục địa). Việc phân định không thể được tiến hành từ những đường yêu sách không có cơ sở pháp lý từ nguyên tắc “Đất thống trị biển” như đường lưỡi bò. Vì vậy Philippin khẳng định các vùng biển này “nhất thiết quy thuộc hoặc thuộc quốc gia ven biển thích hợp hoặc quốc gia quần đảo Philippin – các vùng nước cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng thuộc về quốc gia đó hoặc theo bản chất pháp lý của Lãnh hải, hoặc của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, hoặc của thềm lục địa phù hợp với các điều 3,4, 55,57 và 76 của UNCLOS ". Cách thể hiện ở điểm 3 cũng cho thấy Philippin hoàn toàn để ngỏ khả năng có thể tham gia hay tự đệ trình hồ sơ ranh giới thềm lục địa ở Biển Đông và đàm phán phân định biển với các nước trên cơ sở thỏa thuận duy trì nguyên trạng.

Tóm lại, Công hàm ngày 5/4/2011 của Philippin dù có cách trình bày phức tạp, với nhiều thuật ngữ pháp lý khó hiểu cũng làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh trong lập trường của Philippin về vấn đề Biển Đông:

-     Mọi biện pháp giải quyết tranh chấp ở Biển Đông phải tuân thủ dựa trên cơ sở của Công ước Luật biển năm 1982 (UNCLOS).

-     Mọi đường yêu sách không từ nguyên tắc “Đất thống trị biển”, không đáp ứng các yêu cầu pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS đều vô giá trị, đặc biệt là đường lưỡi bò trong Biển Đông.

-     Có hai dạng tranh chấp ở Biển Đông: tranh chấp chủ quyền trên các đăc trưng địa lý và tranh chấp vùng biển được xác định căn cứ vào quy chế của từng đặc trưng địa lý theo điều 121.3 của UNCLOS. Xu thế đa phần nếu không phải là tất cả các đảo đá trong quần đảo Trường Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý.

-     Việc xác định các vùng biển của các đảo đá theo quy chế điều 121.3 của UNCLOS sẽ quyết định vấn đề phân định biển giữa các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo quanh quần đảo Trường Sa. Đồng thời nó cũng gợi mở khả năng các nước quanh quần đảo Trường Sa phải ngồi với nhau để thỏa thuận về ranh giới ngoài thềm lục địa kéo dài tự nhiên từ bờ biển lục địa và quốc gia quần đảo nếu các đảo đá chỉ có lãnh hải 12 hải lý.

Đóng góp lớn nhất của Công hàm ngày 5/4/2011 là nó đã bác bỏ mọi đường yêu sách quá đáng không trên cơ sở UNCLOS. Nó cũng thể hiện tình đoàn kết giữa các nước ASEAN hình thành một lập trường chung: Mọi tranh chấp tại Biển Đông đều cần phải giải quyết trên cơ sở luật quốc tế, đặc biệt Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc. Công hàm đã góp phần thúc đẩy các Bên nỗ lực tìm tiếng nói chung, trước tiên là thúc đẩy việc thực hiện Tuyên bố DOC, tiến đến một Bộ Quy tắc ứng xử của các Bên trên Biển Đông, tạo khung pháp lý để trao đổi một cách khách quan và thành thật về quy chế các đảo đá của các quần đảo ở Biển Đông, một trong những chìa khóa then chốt để giải quyết hòa bình các tranh chấp Biển Đông.

NCS. Nguyễn Đăng Thắng

 Cám ơn anh  Thao đã chia sẻ bài viết rất kịp thời. Bài viết của anh rất nhiều thông tin và phần nào giải quyết được thắc mắc của tôi là tại sao Phi-líp-pin lại dùng là cấu trúc địa chất chứ không phải cấu trúc địa lý như người ta vẫn thường dùng Nhưng tôi vẫn còn một chút băn khoăn là không phải việc Phi-líp-pin viện dẫn vấn đề địa chất có hàm ý gì liên quan đến quy chế quần đảo của Phi-líp-pin hay quy chế quần đảo riêng cho KIG không? Quy định của Luật pháp Quốc tế về vấn đề này không rõ ràng nhưng trong tranh tụng, các bên tranh chấp vẫn đề cập đến vấn đề địa chất khi nói về một nhóm các đảo có phải là một quần đảo hay không (Vụ Nicaragua/Colombia - Preliminary Objections).

Về phần phân tích thì tôi thấy rất sâu sắc rồi, khó mà góp ý gì được thêm. Chỉ riêng có câu : "Điều này không có nghĩa là Philippin chỉ phản đối một phần đường lưỡi bò liên quan trực tiếp đến Nhóm đảo KIG mà toàn bộ đường lưỡi bò trong Biển Đông.", tôi nghĩ nếu anh nên giải thích thêm một chút để người đọc hiểu rõ hơn.

Ngoài ra, về việc Phi-líp-pin dùng thuật ngữ "vùng nước xung quanh" và "vùng nước tiếp giáp" của "từng cấu trúc địa chất", tôi có thêm một cách hiểu khác đó là do những cấu trúc này có thể gần nhau nên có trường hợp vùng nước của cấu trúc này chồng lấn lên vùng nước của cấu trúc kia, nên có thể khái niệm "vùng nước tiếp giáp" được hiểu trong trường hợp này.

Đọc phần tiếp theo về tranh luận liên quan đến "Công hàm của Trung Quốc "

Nghiên cứu Biển Đông

Đề nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết  trên www.nghiencuubiendong.vn, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập NCBĐ.