06/07/2016
Sáng kiến con đường tơ lụa trên Biển Đông không năm ngoài chiến thuật ba hướng của Trung Quốc: (1) Pháp điển hóa đường lưỡi bò trong các văn bản quốc gia; (2) Triển khai các hoạt động quấy phá, thăm dò dọc theo đường lưỡi bò để áp đặt quyền quản lý toàn Biển Đông; (3) Tuyên truyền phản ứng mạnh mẽ đối với những phát biểu phê phán Trung Quốc của các nước.
Tóm tắt
Tháng 10/2013, Trung Quốc bắt đầu đưa ra sáng kiến phục hồi con đường tơ lụa trên biển nhằm thúc đẩy trao đổi thương mại và nâng cao vai trò của Trung Quốc như một cơ hội đầu tư, nguồn vốn trong mắt các nước ASEAN, 2) mở rộng và liên kết hệ thống các cảng biển, 3) tăng cường vai trò các cộng đồng người Hoa tại nước ngoài và 4) tăng cường độ tin cậy giúp giảm những căng thẳng khu vực về tranh chấp lãnh thổ và những nhạy cảm lịch sử. Tuy nhiên các nước láng giềng lại nhìn nhận con đường tơ lụa trên biển trong tổng thể chiến lược tiến ra Biển Đông, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Vậy con đường tơ lụa trên biển là gì? UNESCO và luật pháp quốc tế đã có những quy định gì và thái độ của Việt Nam cũng như các nước như thế nào. Đó là nội dung mà bài viết này muốn hướng đến.
Trung Quốc và “sáng kiến” con đường tơ lụa trên biển
Tháng 10/2013, trong chuyến thăm chính thức Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đưa ra sáng kiến phục hồi cái gọi là "Con đường tơ lụa trên biển".[1] Sáng kiến này nhằm ba mục đích: (1) hỗ trợ mạng lưới sản xuất chung của khu vực, thúc đẩy trao đổi thương mại và nâng cao vai trò của Trung Quốc như một cơ hội đầu tư, nguồn vốn trong mắt các nước ASEAN; (2) mở rộng và liên kết hệ thống các cảng biển, tăng cường vai trò các cộng đồng người Hoa tại nước ngoài; và (3) tăng cường độ tin cậy giúp giảm những căng thẳng khu vực về tranh chấp lãnh thổ và những nhạy cảm lịch sử.
Tháng 7/2014, theo các nguồn tin Trung Quốc, tỉnh Hải Nam đang cố gắng đăng ký “Con đường tơ lụa hàng hải” lên UNESCO và có kế hoạch khai quật các con tàu bị đắm tại “địa điểm khảo cổ” xung quanh các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa trong hai năm tới. Trung Quốc cũng cho biết từ năm 1990 họ đã triển khai dự án này, xác định 136 địa điểm khảo cổ trong Biển Đông.[2] Theo Tân Hoa xã, đã có 9 thành phố tham gia vào sáng kiến này so với năm 2002 khi Thành phố Quảng Châu đề xướng.[3]
Việc phục hồi con đường tơ lụa trên biển cũng nên được nhìn nhận trong tổng thể chiến lược tiến ra Biển Đông, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Ngay sau khi kết thúc phân chia đàm phán Vịnh Bắc Bộ với Việt Nam năm 2000, phía Trung Quốc đã kêu gọi thành lập vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, một bộ phận của chương trình hợp tác kinh tế "hai hành lang, một vành đai." Phạm vi của vành đai này gồm ba thành phố cấp địa khu của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc gồm: Bắc Hải, Khâm Châu, cảng Phòng Thành; một thành phố cấp địa khu của tỉnh Quảng Đông là Trạm Giang; tỉnh đảo Hải Nam; và 10 tỉnh, thành Việt Nam gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng Trị. Nội dung hợp tác bao gồm thương mại, đầu tư, khai thác kinh tế biển, du lịch và bảo vệ môi trường.[4]
Tháng 7/2006, tại diễn đàn Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ tổ chức tại Nam Ninh. Bí thư khu Uỷ Quảng Tây Lưu Kỳ Bảo đưa ra ý tưởng chiến lược về hợp tác kinh tế vịnh Bắc Bộ mở rộng. Đây là ý tưởng thiết lập hợp tác trên biển giữa Trung Quốc và ASEAN. Theo các chuyên gia Trung Quốc ý tưởng này có lợi cho việc mở rộng không gian phát triển kinh tế và thị trường trong khu vực, tạo ra những điểm kinh tế mới, có lợi cho phát huy sức mạnh, sức cạnh tranh tổng thể của toàn khu vực. Hợp tác sẽ tạo điều kiện để ổn định hơn khu vực Biển Đông (tuyến vận tải quan trọng đối với nhiều nước) và làm cho quan hệ Trung Quốc - ASEAN thêm gắn bó khăng khít trên tinh thần “cùng bù ưu thế, cùng hưởng lợi ích, cùng nhau phát triển” trên cả lục địa và trên biển.
Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng bao gồm các nước Trung Quốc, Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, In-đô-nê-xi-a, Bru-nây. Tháng 1/2014, Hội nghị Quan chức cấp cao về hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng đã thảo luận và xem xét "Khung chiến lược về Lộ trình Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng".[5] Ông Tưởng Chính Hoa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc cho rằng: "sâu sắc và nâng cấp hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng là đòi hỏi bức xúc trong việc nâng cấp phiên bản Khu vực Mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN, cũng là ý nghĩa của việc cùng nhau xây dựng Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21".[6]
Sâu xa, ý tưởng Con đường tơ lụa trên biển này không chỉ dừng lại ở việc đăng ký di sản thế giới mà nhằm tạo một vành đai kinh tế tăng trưởng mới ở phía bờ Tây Thái Bình Dương để đối phó với sáng kiến Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và chiến lược xoay trục châu Á của Mỹ, góp phần tăng thêm sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
Ý tưởng này cũng nhằm củng cố sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông, củng cố yêu sách phi lý đường lưỡi bò. Sáng kiến này được đưa ra trong bối cảnh một lọat các sự kiện gần đây trên Biển Đông đã làm cho các nước trong khu vực nghi ngại nhiều hơn là ủng hộ. Các nước đều cảnh giác trước những hành động của Trung Quốc trong thời gian gần đây như (i) tuyên bố Biển Đông với đường lưỡi bò là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc (tháng 3/2010); thành lập thành phố Tam Sa (ngày 24/7/2012) mà ranh giới bao trùm các quần đảo và bãi ngầm ở Biển Đông, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam ; (iii) cắt cáp tàu Bình Minh, tàu Vi King (năm 2011, 2012); (iv) xâm chiếm Scarborough tranh chấp với Phi-líp-pin (tháng 4/2012); (v) gọi thầu 9 lô dầu khí trên thềm lục địa miền Trung Việt Nam (tháng 6/2012); (vi) in đường lưỡi bò trong Hộ chiếu điện tử (tháng 12/2012); (vii) các luật, quy định về cấm đánh bắt cá, về kiểm soát tàu thuyền nước ngoài của tỉnh Hải Nam, thiết lập chế độ tuần tra sẵn sàng chiến đấu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) ở Biển Đông; (viii) tuyên bố lập vùng cảnh báo bão; (ix) hạ đặt trái phép dàn khoan HD 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam (tháng 5/2014); (x) xuất bản bản đổ khổ đứng (tháng 6/2014).
Sáng kiến con đường tơ lụa trên Biển Đông không nằm ngoài chiến thuật ba hướng của Trung Quốc: (1) Pháp điển hóa đường lưỡi bò trong các văn bản quốc gia và tranh thủ đăng ký tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế; (2) Triển khai các hoạt động quấy phá, thăm dò dọc theo đướng lưỡi bò để áp đặt quyền sở hữu và quản lý toàn Biển Đông; (3) Tuyên truyền phản ứng mạnh mẽ đối với những phát biểu phê phán Trung Quốc của các nước và kiên trì thử thách sự chịu đựng của cộng đồng quốc tế.
UNESCO và việc bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước
Trong Công ước bảo vệ các di sản văn hóa và tự nhiên thế giới năm 1972, lời nói đầu chỉ rõ UNESCO có tôn chỉ mục đích đưa ra các khuyến nghị và quyết định quốc tế đối với các tài sản văn hóa và thiên nhiên, chứng minh tầm quan trọng của việc bảo tồn các tài sản độc nhất và không thể thay thế được đối với tất cả các dân tộc trên thế giới cho dù chúng thuộc về bất kỳ dân tộc nào.
Theo điều I Công ước, di sản văn hóa là: (i) Các di tích: các công trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội họa hoành tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học; (ii) Các quần thể: các nhóm công trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến trúc, sự thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hóa của chúng vào cảnh quan; (iii) Các thắng cảnh: các công trình của con người hoặc những công trình của con người kết hợp với các công trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Tuy nhiên, Công ước cũng quy định rõ tại khoản 3, 6 điều XI: “Việc ghi một tài sản vào danh sách di sản thế giới chỉ có thể làm với sự đồng ý của quốc gia hữu quan. Việc ghi một tài sản nằm trên lãnh thổ đang còn là mục tiêu tranh chấp chủ quyền hoặc còn là mục tiêu chế định pháp luật của nhiều quốc gia, thì điều đó không hề là việc công nhận quyền lợi của các bên trong tranh chấp.[7]
Lịch sử thế giới ghi nhận con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Áp-ga-ni-xtan, Ca-dắc-xtan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay 6.437 km. Thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao khiến cho những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển. Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển) và Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Con đường này xuất phát từ cảng Từ Văn, Hợp Phố (bán đảo Lôi Châu) qua vịnh Bắc Bộ, men theo bờ biển Việt Nam qua vịnh Thái Lan xuống vùng tây - nam Ma-lai-xi-a, đi qua eo Ma-la-ca vòng lên phía bờ biển nam Thái Lan, qua Miến Điện vào vịnh Ben-gal rồi xuôi xuống vùng nam Ấn Độ và dừng lại trên đảo Xri-lan-ca. Nhà Hán học người Pháp Edourd Chavanse (1865-1918) trong tác phẩm “Sử liệu Tây Turki”, cho rằng “Con đường tơ lụa có hai tuyến: đường bộ và đường biển”.[8]
Con đường tơ lụa không chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán mà còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn, có thể mang lại nhiều lợi ích đa phương trong trao đổi văn hóa và du lịch. "Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin". Hiện tại các tổ chức quốc tế UNESCO, ICOMOS, UCL đang triển khai dự án nghiên cứu các địa điểm và tuyến đường dọc theo con đường tơ lụa trên bộ (Silk Roads World Heritage Serial Nomination project). Dự án đã có 15 nước tham gia.[9] Ngày 22/6/2014, tại khóa họp lần thứ 38, UNESCO đã thông qua danh sách ghi nhận Kênh Lớn (Grand Canal) của Trung Quốc và Con đường tơ lụa (Silk Road - trên bộ), mà Trung Quốc, Ca-dắc-xtan và Cơ-gư-xtan đồng trình là di sản văn hóa thế giới, đưa danh sách di sản của Trung Quốc lên con số 47.[10]
UNESCO cũng quan tâm đến việc bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Các di chỉ khảo cổ dưới nước được đề cập lần đầu trong Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Hai điều khoản liên quan trực tiếp đến các di sản văn hóa dưới nước là 149 và 303:
Điều 149 quy định: “Tất cả các di vật khảo cổ hay lịch sử tìm thấy trong Vùng đều được bảo tồn hay nhượng lại vì lợi ích của toàn thể loài người, đặc biệt quan tâm đến các quyền ưu tiên của quốc gia hay của nơi xuất xứ, hoặc của quốc gia xuất xứ về văn hóa, hay còn của quốc gia xuất xứ về lịch sử hay khảo cổ”. Điều này liên quan đến các di vật khảo cổ hay lịch sử nằm trong Vùng di sản chung của loài người, tức vùng biển nằm ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Điều 303 quy định: “Các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các hiện vật có tính chất khảo cổ hay lịch sử được phát hiện ở biển, các quốc gia hợp tác với nhau vì mục đích ấy.
Để kiểm soát việc mua bán hiện vật này, bằng cách áp dụng điều 33, quốc gia ven biển có thể coi việc lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, đã được nêu ở điều 33.
Điều này không đụng chạm đến các quyền của những người sở hữu có thể được xác nhận, cũng không đụng chạm đến quyền thu hồi các xác tàu và các quy tắc khác của luật hàng hải, cũng không động chạm đến các luật và tập quán về mặt trao đổi văn hóa. Điều này không làm phương hại đến các điều ước quốc tế khác và các quy tắc của pháp luật quốc tế liên quan đến việc bảo vệ các hiện vật có tính lịch sử hay khảo cổ.”
Điều 33 là điều quy định chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải. Như vậy, trong Biển Đông, nơi có nhiều yêu sách biển chồng lấn, sẽ khó có Vùng di sản chung nên chỉ còn điều 303 được áp dụng cho vùng tiếp giáp lãnh hải 24 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Quốc gia ven biển có đầy đủ quyền chủ quyền đối với các di vật mang tính lịch sử và khảo cổ trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình. Việc trục vớt, lấy các hiện vật đó từ đáy biển trong vùng nói ở điều đó mà không có sự đồng ý của quốc gia ven biển được coi là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.[11]
Để làm rõ thêm các quy định của UNCLOS 1982, năm 2001 UNESCO đã thông qua Công ước về bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước. Điều 1 của Công ước định nghĩa các di sản văn hóa dưới nước là : “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người...; tàu, máy bay ... và hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử”.[12] Tiêu chí thời gian 100 năm đã lọai bỏ tất cả các dấu tích của hai cuộc Thế chiến thế giới đến nay. Mục đích chính của Công ước là bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước “vì lợi ích của toàn thể nhân loại” ngay tại các điểm (situ) phát hiện ra chúng. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác hợp tác với nhau bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước tránh sự tác động của kỹ thuật, của các hoạt động do con người gây ra đối với tự nhiên (như đặt cáp, khoan đào, khai thác tài nguyên..) và nâng cao giáo dục, truyền bá kiến thức về các di sản này cho các thế hệ. Luật cứu hộ và luật tìm thấy sẽ không được áp dụng đối với các di sản văn hóa dưới nước.[13] Công ước đã có hiệu lực vào ngày 2/1/2009 và hiện đã có 48 quốc gia phê chuẩn.[14]
Việt Nam và những việc cần làm
Con đường tơ lụa trên biển thực chất là con đường thương mại. Hàng hóa trao đổi không chỉ có tơ lụa. Các quốc gia nằm ven bờ Biển Đông đều có lịch sử thương mại hàng hải phong phú. Các vụ trục vớt tàu thuyền như ở Cù Lao Chàm năm 2003 đã cho thế giới thấy một nền văn minh gốm Chu Đậu khác biệt hẳn với Trung Hoa và đã được trao đổi buôn bán với nhiều nước trên thế giới. Các cảng Phố Hiến, Hội An đã từng là các trung tâm thương mại hàng hải lớn của khu vực. Tàu thuyền qua lại Biển Đông đều có hành trình an toàn, nhất là chạy dọc theo bờ biển Việt Nam. Vì vậy, tuyến đường hàng hải qua biển Việt Nam cũng đã là một phần của con đường tơ lụa trên biển trong quá khứ.
Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận nhiều họat động mang tính Nhà nước về khai thác các hóa vật từ tàu đắm trên quần đảo Hoàng sa, Trường Sa, trợ giúp cứu hộ các tàu thuyền nước ngoài bị nạn trong vùng biển của mình. Bằng các hành động của đội Hoàng Sa, Bắc Hải, Việt Nam là Nhà nước đầu tiên đã khẳng định chủ quyền trên hai quần đảo và các vùng biển xung quanh, ít nhất từ thế kỷ XVII mà không gặp phải sự phản ứng từ bất kỳ quốc gia nào. Căn cứ vào Công ước Luật biển 1982 và các Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của UNESCO 1972 và 2001, Việt Nam là quốc gia ven biển có chủ quyền đối với “tất cả dấu vết của sự tồn tại của con người có tính chất văn hóa, lịch sử hay khảo cổ có một phần hoặc hoàn toàn dưới nước, định kỳ hoặc liên tục, ít nhất là 100 năm như: các địa điểm, các cấu trúc, các công trình, đồ tạo tác và vết tích con người...; tàu, máy bay ... và hàng hóa của họ, cùng với nội dung khảo cổ và tự nhiên của chúng; và các đối tượng mang tính tiền sử” trong vùng nội thủy, lãnh hải và tiếp giáp lãnh hải của mình. Đồng thời Việt Nam cũng có nghĩa vụ hợp tác với các quốc gia khác trong việc bảo vệ và bảo tồn các di sản văn hóa dưới nước tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vùng di sản chung của loài người bên ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển.
Trên cơ sở đó, thiết nghĩ Việt Nam cần triển khai một số việc sau:
- Nhanh chóng kiểm tra, bổ sung các quy định về di sản văn hóa, lịch sử và khảo cổ trong vùng tiếp giáp lãnh hải vào Luật các vùng biển Việt Nam 2012 và Nghị định 96/2009/NĐ-CP ngày 30/10/2009 về việc xử lý tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu, xây dựng danh mục các địa điểm đăng ký di sản văn hóa dưới nước với UNESO, đồng thời là cơ sở đấu tranh với các ý định bành trướng trên biển dưới chiêu bài bảo vệ các di sản nhân lọai.
- Nghiên cứu khả năng gia nhập Công ước về bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước 2001 và các văn bản liên quan làm cơ sở pháp lý đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia.
- Tuyên truyền quảng bá các kiến thức về di sản văn hóa dưới nước, tạo nhận thức chung trong công chúng.
Con đường tơ lụa trên biển là một thực tế, không bác bỏ trong đó đóng góp của Trung Quốc và các nước ven biển là quan trọng, nhưng việc vinh danh nó phải trên cơ sở tộn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền các nước, vì mục đích hòa bình, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc, không thể xen lẫn bất kỳ mục đích tư lợi nào. /.
Tác giả bài viết là PGS. TS. Nguyễn Hồng Thao. Những quan điểm nêu trong bài là của riêng tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 3 (98), tháng 9/2014.
[1] http://www.thestar.com.my/Opinion/Columnists/Check-In-China/Profile/Articles/2014 /07/25/Charting-the-21st-century-Maritime-Silk-Road/
[2] China boosts underwater archeological protection, People's Daily Online
[3] China boosts underwater archeological protection, Xinhua English news
http://thediplomat.com/2014/05/chinas-new-silk-road-vision-revealed/
http://www.thehindu.com/news/international/world/china-billion-dollarfund-for-maritime-silk-road/article6026755.ece
[4] http://www.osaka-ue.ac.jp/file/general/4626
[5] Li Mingjiang, Pan Tonkin Gulf Cooperation, http://www.isn.ethz.ch/Digital-Library/ Articles/Detail/?lng=en&id=54023
[6] Lộ trình thực thi hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng đang dần rõ nét - Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc
[7] Ví dụ, năm 2007 Cam-pu-chia đề nghị công nhận Di sản văn hóa cho đền Preah Vihear nhưng đã bị UNESCO bác bỏ do còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và một phần vì Thái Lan bác bỏ và phản đối đề nghị này của Cam-pu-chia. Tuy nhiên, một năm sau, được Bộ Ngọai giao Thái Lan ủng hộ, vào ngày 7 tháng 6 năm 2008, Ủy ban di sản thế giới họp tại Ca-na-đa đã công nhận đền Preah Vihear là di sản thế giới. Quyết định này cũng dựa trên phán quyết của Tòa án quốc tế năm 1962 công nhận chủ quyền của Cam-pu-chia đối với đền Preh Vihear. Xem: UNESCO World Heritage Centre - Convention Concerning the Protection of the World Cultural and Natural Heritage.
[8] “Con đường tơ lụa trên biển” thời Hán tuyến đường thương mại biển sớm nhất của Trung Quốc, Bảo tàng Quảng Đông: Tuyển tập ảnh hiện vật từ con đường tơ lụa trên biển, Nxb Quảng Đông, 1991.
[9] “The UNESCO Silk Road Online Platform”, Silk Roads Heritage Corridors Tourism Strategy Workshop
[10] Grand Canal and Silk Road added to UNESCO’s World Heritage List
[11] UNCLOS text, http://www.un.org/depts/los/convention_agreements/texts/unclos/clos indx.htm.
[12] http://unesdoc.unesco.org/images/0012/001260/126065e.pdf.
[13] International law for the protection of the underwater cultural heritage can our past be salvaged; http://www2.mcdonald.cam.ac.uk/projects/iarc/culturewithoutcontext/ issue16/papa-sokal.htm
The UNESCO 2001 Convention - A critical analysis, http://company.aww.pt/company /arc_unesco.asp?Language=EN.
[14] Ratification of the 2001 UNESCO Convention, http://db3sqepoi5n3s.cloudfront. net/files/docs/080219unesco.ppt. Tại Đông Nam Á chỉ mới có Cam-pu-chia tham gia.
Năm 2023, dù chiến sự tại Ukraine diễn biến căng thẳng và xung đột tại Trung Đông leo thang, tình hình Biển Đông tiếp tục thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Biển Đông cũng ngày càng được coi là chỉ dấu về trật tự dựa trên luật lệ từ phía Mỹ và đồng minh – đối tác thông qua các tuyên bố và văn bản...
Trả lời câu hỏi của phóng viên chiều ngày 25/5/2023, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 (XYH-10) của Trung Quốc cùng một số tàu hải cảnh, tàu cá bảo vệ đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được xác lập phù hợp với các quy định của...
Trong gần hai năm trở lại cầm quyền tại Malaysia từ tháng 5/2018 - 3/2020, Thủ tướng Mahathir Mohamad (sau đây gọi là Chính quyền Mahathir 2.0) đã thổi luồng gió mới vào chính sách Biển Đông của Malaysia. Khác với cách tiếp cận “thầm lặng” của chính quyền tiền nhiệm, Thủ tướng Mahathir và chính quyền...
Qua phân tích ảnh vệ tinh Đá Ba Đầu từ 2016 đến nay cho thấy, việc Trung Quốc tập kết lượng lớn tàu, dài ngày tại Đá Ba Đầu không phải để tránh thời tiết xấu mà nhiều khả năng là chiến thuật "cắt lát Salami" mới ở Biển Đông, bắt đầu triển khai từ tháng 2 năm 2020.
Bài viết phân tích Hải chiến Hoàng Sa (1974), cuộc tấn công ở Trường Sa (1988), sự kiện Đá Vành Khăn (1995) và sự kiện Bãi cạn Scarborough (2012) để tìm ra những quy luật nhất định. Đây sẽ là cơ sở để phán đoán thời điểm Trung Quốc hành động chiếm mới các thực thể ở Biển Đông để từ đó Việt Nam ra...
Nội dung bài viết bao quát lịch sử quá trình từ khi Trung Quốc manh nha thúc đẩy ý tưởng nghiên cứu băng cháy trên Biển Đông; cho đến hiện trạng khai thác hiện nay để làm rõ thực chất Trung Quốc đã đi đến bước nào trong tiến trình khai thác một loại năng lượng mới ở trên Biển Đông.