12/12/2025
Tác chiến điện tử là thuật ngữ chỉ việc sử dụng các dạng bức xạ điện tử và tín hiệu điện tử không gian cho mục đích trinh sát, thu thập tình báo điện tử, gây nhiễu, thậm chí tấn công phá hỏng các hệ thống điện tử của đối phương.
Những năm gần đây, tác chiến điện tử đã trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự của một quốc gia, cũng là lĩnh vực cọ xát và cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc quân sự thế giới. Trong đó, Mỹ và Trung Quốc đã xảy ra nhiều vụ va chạm tác chiến điện tử nhằm răn đe, kiểm soát hoạt động quân sự của nhau. Trong bối cảnh đó, các quốc gia ASEAN cần tăng cường năng lực giám sát, kiểm soát điện tử trên không và trên biển, góp phần đảm bảo an ninh và ổn định của khu vực.
Thế mạnh tác chiến điện tử của Mỹ
Mỹ là quốc gia có truyền thống sử dụng tác chiến điện tử trong các cuộc xung đột và chiến tranh. Trước đây, quân đội Mỹ từng cải tiến máy bay ném bom B24 để gây nhiễu hệ thống radar của quân đội Đức trong Thế chiến thứ hai. Mỹ cùng từng sử dụng máy bay do thám tầm cao U2 “Lady Dragon” nhằm vào Liên Xô, Trung Quốc và Cuba trong những năm 50 và 60 của thế kỷ trước…Tới những năm 2000, Mỹ đã đưa vào sử dụng loại máy bay tác chiến điện tử EA-18G Growler, trang bị các radar gây nhiễu và phòng thủ điện tử tiên tiến.[1] Quân đội Mỹ còn sử dụng các loại máy bay cảnh báo sớm, kiểm soát chiến trường, trinh sát, do thám, tác chiến điện tử tổng hợp để kiểm soát, duy trì ưu thế tác chiến điện tử, thu thập thông tin tình báo trên không trong các chiến dịch quân sự được triển khai tại nhiều nơi trên thế giới.
Trên biển, quân đội Mỹ cũng phát triển và đưa vào sử dụng nhiều loại tàu do thám, thu thập tình báo và trinh sát điện tử, như các tàu thuộc lớp Liberty (năm 1967), lớp Victorious (năm 1991), lớp Impeccable (năm 2000), và các tàu do thám đại dương (T-AGOS). Trên bộ, quân đội Mỹ có các hệ thống trinh sát điện tử di động như AN/MLQ-40 Prophet, hệ thống trinh sát vô tuyến điện, hệ thống chỉ huy và kiểm soát tác chiến điện tử AN/TSQ-179 có khả năng quản lý tổng hợp, điều phối các hoạt động trinh sát và tác chiến điện tử trên chiến trường.
Những năm gần đây, Mỹ tiếp tục đầu tư lớn cho lĩnh vực tác chiến điện tử. Trong năm 2024 Mỹ đã lên tới 5 tỷ USD, chiếm tới 45% trong tổng số 11 tỷ USD của 9 quốc gia chi tiêu nhiều nhất cho lĩnh vực này. Dự tính trong 10 năm tới, Mỹ có thể sẽ chi tới 7,5 tỷ USD cho lĩnh vực tác chiến điện tử. [2]
Năng lực tác chiến điện tử của Trung Quốc
Trong quá trình hiện đại hóa quân đội và quốc phòng, quân đội Trung Quốc (PLA) cũng đặc biệt chú trọng phát triển năng lực chiến tranh thông tin và tác chiến điện tử. Ngay từ năm 2002, học thuyết quân sự của Trung Quốc đã nhấn mạnh vấn đề “chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hóa”. Sách trắng quốc phòng Trung Quốc năm 2004 nhận định, các cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ là “chiến tranh cục bộ trong điều kiện thông tin hóa”, đồng thời yêu cầu PLA phải hiện đại hóa năng lực tác chiến, phát triển các hệ thống kiểm soát và cảnh báo hàng không (AWACS), hệ thống tình báo điện tử (ELINT), hệ thống giám sát và chỉ huy tác chiến hỗn hợp (JSTARS).
Trên phương diện tiến bộ kỹ thuật và phát triển phần cứng, quân đội Trung Quốc đã phát triển nhiều hệ thống tác chiến điện tử phức hợp. Như các hệ thống cảnh báo, do thám, trinh sát điện tử thế hệ mới KZ-800 và KZ-900 có khả năng ngăn chặn, đánh lừa các hệ thống điện tử và máy tính của đối phương.[3] Tới những năm 2000, PLA tiếp tục trang bị loại máy bay cảnh báo sớm KJ-2000[4], máy bay trinh sát Vận 9, các máy bay tiêm kích J15D và J16D, kết hợp với các hệ thống trinh sát và tác chiến điện tử như KG-300 và KG-300G cho nhiệm vụ chống ngầm[5]. PLA cũng đẩy nhanh tích hợp cụm tàu sân bay tác chiến, có sự hỗ trợ của các tàu khu trục TYPE 055 và TYPE 052D, tàu TYPE 815 và 815A cùng nhiều hệ thống do thám, gây nhiễu và chống giám sát điện tử mạnh nhằm mở rộng vùng chống tiếp cận.
Từ kinh nghiệm xung đột và chiến tranh hiện đại, quân đội Trung Quốc cũng đã đưa vào sử dụng nhiều loại UAV tiên tiến có chức năng giám sát điện tử mạnh, phát triển các tổ hợp radar có khả năng gây nhiễu phổ điện tử, nhằm đối phó với hệ thống C4ISR của Mỹ. PLA còn đầu tư phát triển các loại chíp siêu nhanh, tích hợp nhiều nền tảng vũ khí công nghệ cao nhằm kiểm soát chiến trường trong tác chiến hiện đại. Trung Quốc cũng đẩy mạnh phát triển các hệ thống vệ tinh do thám, nâng cấp các nền tảng thông tin liên lạc tại những khu vực an ninh chiến lược như ở Biển Đông, Hoa Đông.[6]
Với những bước tiến này, PLA được cho đã thu hẹp đáng kể khoảng cách với quân đội Mỹ trong lĩnh vực tác chiến điện tử, gồm cả trong đảm bảo an ninh biển. Một số chương trình thu thập thông tin tình báo điện tử toàn cầu của PLA còn có khả năng phát hiện ra các tín hiệu từ trường ẩn tại khu vực Biển Đông, Guam, quần đảo Marshall và quần đảo Eleutian của Mỹ, giúp PLA xử lý tốt hơn nhiệm vụ gây nhiễu, áp chế nếu xảy ra va chạm hoặc xung đột quân sự với đối thủ.[7] Các hệ thống phòng không của PLA được cho đã đủ năng lực đối phó với hệ thống tên lửa Patriot của Mỹ.[8] Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã phát triển hệ thống vũ khí tác chiến điện tử 6G đầu tiên, có thể làm gián đoạn hệ thống radar trên các máy bay F35 tiên tiến của Mỹ hoạt động trong khu vực.
Tác chiến điện tử trong vấn đề Biển Đông
Biển Đông có vai trò hết sức quan trọng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương và nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Mỹ và Trung Quốc. Vì nhiều lí do, việc đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai nước ít có nguy cơ xảy ra. Vì vậy, hình thức cọ xát tác chiến điện mang tính phi tiếp xúc được cả hai bên ưu tiên lựa chọn để thể hiện sức mạnh nước lớn, răn đe lẫn nhau và tạo lợi thế trong cạnh tranh hợp tác quân sự khu vực. Do địa hình phức tạp của Biển Đông, Mỹ đã tận dụng các căn cứ quân sự tại Hawaii, Nhật Bản, Philippines và cả Đài Loan để triển khai hành động kiểm soát, do thám điện tử trong khu vực. Trung Quốc cũng sử dụng các căn cứ tại Hải Nam, khu vực chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa, Trường Sa để triển khai đối phó.
Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng, Biển Đông trở thành không gian đối đầu quan trọng không chỉ về địa chính trị mà còn về công nghệ quân sự hiện đại. Không gian điện từ đã và đang trở thành một “mặt trận mới” nơi thông tin, tín hiệu và ưu thế công nghệ quyết định khả năng kiểm soát và phản ứng chiến lược. Việc kiểm soát không gian điện từ không chỉ giúp đảm bảo khả năng cảnh bá sớm và chỉ huy tác chiến hiệu quả, mà còn tạo thế răn đe trong thời bình và ưu thế phủ đầu nếu diễn ra xung đột vũ trang.
Về diễn biến trên thực địa, Mỹ và Trung Quốc đang gia tăng các hành động tác chiến điện tử nhắm vào nhau. Có thông tin cho rằng, trong đầu tháng 07/2024, Hải quân Mỹ và Hải quân Trung Quốc đã có một cuộc giao tranh điện tử kéo dài 12 giờ tại khu vực Bãi Cỏ Mây.[9] Hải quân Mỹ đã sử dụng các máy bay trinh sát điện tử, máy bay săn ngầm, thả nhiều thiết bị sóng âm Sonar tiên tiến để giám sát hoạt động của tàu sân bay, tàu ngầm Trung Quốc khi các phương tiện này đang di chuyển ra Thái Bình Dương diễn tập. Ngược lại, PLA đã dùng các máy bay tác chiến điện tử, UAV trinh sát điện tử loại lớn, các tàu trinh sát điện tử và hệ thống tác chiến điện tử của tàu sân bay Sơn Đông để rà quét, trục vớt các thiết bị sonar của Mỹ. Qúa trình cọ xát đối kháng điện tử đã khiến nhiều hệ thống radar của quân đội Philippines và tín hiệu GPS dân sự tại eo biển Luzon bị mất tín hiệu. Điều này cho thấy nguy cơ đối đầu tác chiến điện tử giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông ngày càng tăng cao.
Về yêu cầu nâng cao năng lực tác chiến điện tử của ASEAN
Nguy cơ va chạm tác chiến điện tử trên Biển Đông giữa Trung Quốc và Mỹ diễn ra ngày càng phức tạp, trong khi khả năng nhận thức tình huống, năng lực kiểm soát, giám sát điện tử của các thành viên ASEAN so với các nước lớn có sự cách biệt rõ rệt cả về trình độ kỹ thuật và ứng dụng thực tế. Để thực hiện tốt quyền của các quốc gia ven biển, đảm bảo an ninh, thúc đẩy an toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, các quốc gia ASEAN cần tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực kiểm soát, giám sát với các vùng biển thuộc quyền tài phán trong lĩnh vực thông tin và tác chiến điện tử. Trong lĩnh vực quân sự quốc phòng, ASEAN đã phát triển được mạng quân sự, xây dựng trung tâm về an ninh mạng, tổ chức nhiều cuộc diễn tập chung. ASEAn cũng thông qua cơ chế đối thoại Bộ trưởng Quốc phòng ADMM để thúc đẩy các hợp tác quốc phòng, hướng tới một cơ chế an ninh, xây dựng lòng tin và cùng ứng phó với các thách thức an ninh chung.
Trong ASEAN, một số quốc gia như Singapore, Malaysia và Philippines đang có nỗ lực tăng cường khả năng tác giám sát, tác chiến điện tử. Năm 2022, Bộ Quốc phòng Singapore thành lập lực lượng Tác chiến số và thông minh (Digital and Intelligence Service - DIS) phụ trách các hoạt động tình báo kỹ thuật số và chiến tranh mạng[10]. Malaysia đã hợp tác với một số nước Đông Nam Á trong lĩnh vực quang điện tử, radar, tích hợp đa hệ thống và tác chiến điện tử.[11] Philippines cũng tích cực tranh thủ sự trợ giúp của Mỹ và Nhật Bản. Nhật Bản đã cung cấp cho Philippines các hệ thống radar cố định J/FPS-3ME và radar di động J/TPS-P14ME, giúp quân đội Philippines tăng cường khả năng giám sát và cảnh báo sớm tại Biển Đông.[12] Cuối năm 2024, Mỹ đã ký thỏa thuận tăng cường trao đổi thông tin tình báo quân sự, cho phép Philippines tiếp cận các hệ thống giám sát vệ tinh và drone của Mỹ, trao đổi thông tin theo thời gian thực có liên quan tới các hệ thống tên lửa tiên tiến của Mỹ bố trí tại Philippines. Ngoài ra, quân đội Philippines cũng thông qua các cuộc tập trận chung với quân đội Mỹ để củng cố năng lực tác chiến điện tử bằng UAV và khinh khí cầu tầm cao[13]
Trong tương lai, ASEAN cần nỗ lực tự chủ, chú trọng cả hợp tác nội khối và hợp tác với đối tác bên ngoài. Đồng thời, ASEAN cũng cần tăng cường các biện pháp ngoại giao quân sự quốc phòng, ngoại giao kỹ thuật, minh bạch nhu cầu hợp tác trong lĩnh vực tác chiến điện tử phục vụ việc đảm bảo an ninh và lợi ích thiết thực của các quốc gia thành viên trước sự biến động của an ninh trên thế giới và khu vực.
Nguyễn Đăng Hoàng Vũ – Lê Ngọc Mai
* Bài viết đăng trân Tập chí Công nghiệp Quốc phòng và Kinh tế, số 5 (2028) 2025, ISSN 1859-4654
* Nghiên cứu viên Học viện Ngoại giao, bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả.
[1] https://www.163.com/dy/article/13HESR6CO5356990.html
[2] “Mỹ đầu tư lớn cho lĩnh vực tác chiến điện tử”, mạng 81.cn, ngày 06/6/2024.
[3] www.vire.cn/news/81.html
[4] Sanjay Poduval, “China’s electronic and cyber wafare capabilities”, Indian Centre for Air Power Studies, Sep 2022.
[5] Riêng loại J16D ra đời năm 2021 có thể giám sát nhiều nguồn tín hiệu radar khác nhau, có thể mang các tên lửa chống bức xạ CM-102 tiên tiến gây nhiễu rada hỏa lực của đối phương.
[6] Matthew P.Funaiole, Joseph S.Bermudez, “China is ramping up its electronic warfare and communications capabilities near the South China Sea”, CSIS, Dec 17, 2021.
[7] Stephen Chen, “China’s military AI detects secret radar link between South China Sea, Alaska and Guam”, South China Morning Post, 16 Aug 2024.
[8] “Trung Mỹ bùng phát tác chiến điện tử ở Biển Đông, Mỹ thua rút”, Nhật báo Hòa bình, ngày 02/7/2024. Truy cập tại: https://www.hepingribao.id/home/2024/07/02/中美在南海爆发电子战,美军败退!/
[9] https://militarywatchmagazine.com/article/navies-electronic-warfare-battles-philippines
[10] Mike Yeo, “How Digital and Intelligence Service revamp boosts SAF’s digital, cyber-security backbone”, The Straits Times, ngày 31/3/2025.
[11] https://viettelhightech.com/en/dsa-2024-viettel-high-tech-sets-stratergic-expansion-in-malaysias-defense-and-high-tech-markets
[12] Seth Robson, Hana Kusumoto, “Japan hands Phillipines updated air surveillance radar with military drills underway”, Stars and Stripes, ngày 30/4/2024.
https://www.stripes.com/theaters/asia_pacific/2024-04-30/philippines-radar-japan-china-13704400.html.
[13] Maj. Ian Sandall, “US Army Trains with Latest Maritime Domain Awareness Capabilities Alongside Phillipine Partners During Balikatan 25”, U.S. Army Pacific, ngày 06/5/2025.
Ngày 5/12/2025, Chính quyền Trump (Trump 2.0) công bố Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) 2025. Trên cơ sở phân tích và so sánh nội dung NSS 2025 với các NSS năm 2021 của Chính quyền Biden và năm 2017 của Chính quyền Trump đầu tiên (Trump 1.0), trong bài viết này, Nghiên cứu Biển Đông xin gửi tới Quý...
Trung Quốc đang đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học biển sâu với định hướng chiến lược vượt ra ngoài mục tiêu dân sự và kinh tế. Thông qua việc triển khai các công nghệ lưỡng dụng tại các vùng biển có vị trí địa chiến lược quan trọng, Trung Quốc không chỉ tìm kiếm lợi ích tài nguyên mà còn thúc...
Bài bình luận này đề xuất : Trung Quốc và Philippines có thể hợp tác thiết lập “Công viên Hòa bình Scarborough”, một khu bảo tồn biển song phương nhằm bảo tồn đa dạng sinh học của bãi cạn này, đồng thời thúc đẩy hòa bình và hợp tác tại đây.
Sau hơn bảy thập kỷ kể từ khi được thiết lập vào năm 1951, liên minh Nhật Bản - Mỹ đã trở thành một trụ cột ổn định của cấu trúc an ninh khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, trước những biến động chiến lược gần đây, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng bất ổn trong khu vực,...
Ngày 9/9/2025, Quốc Vụ viện Trung Quốc công bố văn bản số 87 [2025] với tiêu đề (Quyết định của Quốc vụ viện về việc phê chuẩn thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên cấp quốc gia tại Bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham). Một ngày sau, Cục Lâm nghiệp và Thảo nguyên Quốc gia Trung Quốc ban hành Thông cáo số 12...
Trong bối cảnh an ninh khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ngày càng phức tạp, New Zealand đang thể hiện những dấu hiệu chuyển hướng rõ rệt, từ vị thế chủ yếu quan sát sang thể hiện vai trò chủ động can dự hơn trong các vấn đề khu vực. Chính quyền Thủ tướng Christopher Luxon (nhậm chức từ tháng 10/2023)...