01/03/2010
Việc Trung Quốc vươn ra biển Nam Trung Hoa là điều tự nhiên do sự gần gũi về mặt địa lý của nước này, do các mối quan hệ kinh tế và văn hóa trong lịch sử của nó, và sự tăng trưởng năng động của Trung Quốc. Chúng ta mong muốn Trung Quốc hòa hợp với các nước láng giềng của họ, bởi vì một khu vực hòa bình và ổn định hỗ trợ cho những lợi ích của Mỹ. Chúng ta hoan nghênh sự can dự của Trung Quốc trong khu vực và hướng tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc cũng như các đối tác của chúng ta trong khu vực. Gia tăng đối thoại giữa Trung Quốc và các cổ đông chủ chốt của khu vực và sự công khai minh bạch nhiều hơn đối với tất cả các bên có thể đảm bảo chắc chắn rằng sự ổn định vẫn được duy trì và sự phát triển kinh tế được tiếp tục trên một con đường tích cực ở châu Á, và sự can dự tích cực của Mỹ sẽ đóng một vai trò then chốt trong việc đem lại điều này, và trong việc đảm bảo những lợi ích chiến lược của Mỹ trong khu vực quan trọng này.
**********
Thưa Chủ tịch Slane, thưa Phó Chủ tịch Bartholomew, thưa ngài Phó Chủ tịch Ủy ban Wortzel, thưa các thành viên Ủy ban, cám ơn các vị đã mời tôi có mặt trước quý vị ngày hôm nay. Châu Á-Thái Bình Dương là một khu vực quan trọng mà chúng ta đã tiếp cận với cam kết được khẳng định lại trong năm qua. Đồng nghiệp của tôi từ Bộ Quốc phòng sẽ tập trung vào các hoạt động liên quan đến quốc phòng ở Đông Nam Á, vì vậy phát biểu của tôi sẽ tập trung vào những khía cạnh kinh tế và ngoại giao rộng lớn hơn của khu vực.
Những lợi ích kinh tế
Trung Quốc có những lợi ích chiến lược và kinh tế lâu dài ở Đông Nam Á do vị trí sát gần của khu vực này với Trung Quốc đại lục, những thị trường đang mở rộng của khu vực cho hàng hoá Trung Quốc, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của nó. Những quan hệ kinh tế đã phát triển đáng kể khi các nước Đông Nam Á tận dụng các cơ hội do sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc đem lại. Buôn bán 2 chiều của Trung Quốc với tất cả 10 nước ASEAN là 193 tỉ USD trong năm 2008, tăng so với 9 tỉ USD năm 1993 - một tỉ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm 23%. Xin nêu cho các vị một vài ví dụ về các quan hệ thương mại song phương của Trung Quốc trong khu vực, buôn bán hai chiều của Việt Nam với Trung Quốc ước khoảng 20 tỉ USD năm 2009, một sự gia tăng gấp 4 lần kể từ năm 2005. Buôn bán của Malaixia với Trung Quốc lên tới 53 tỉ USD năm 2008, tăng 77% kể từ 2005. Năm 2009, Trung Quốc nhập 4 triệu tấn dầu cọ từ Malaixia, chiếm 23% tổng sản lượng dầu cọ của Malaixia. Rõ ràng là cả CHND Trung Hoa lẫn các nước ASEAN đều nhận thấy những lợi ích chung từ buôn bán mở rộng. Các quan hệ kinh tế của Trung Quốc với khu vực sẽ có khả năng phát triển hơn nữa theo Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc-ASEAN đã trở thành hiệp định đầu tiên có hiệu lực của năm nay.
Tuy nhiên, buôn bán và đầu tư tăng lên với Trung Quốc không phải là một điều tốt hoàn toàn đối với nhiều nền kinh tế ASEAN. Một số nhà quan sát đã tuyên bố rằng Trung Quốc đã đem lại sự trục trặc về kinh tế địa phương và những căng thẳng cho một số nền kinh tế Đông Nam Á. Lo ngại rằng cạnh tranh từ hàng hoá giá rẻ từ Trung Quốc có thể có tác động tiêu cực đến các ngành công nghiệp trong nước họ, Inđônêxia đã kêu gọi xem xét lại hiệp định này, và các nước khác trong khu vực cũng dấy lên mối lo ngại.
Trong việc đánh giá sự phát triển về buôn bán của Trung Quốc với các nước ASEAN, điều có ích là so sánh điều đó với các mối quan hệ kinh tế của ASEAN với các nền kinh tế toàn cầu lớn khác. Năm 2008, buôn bán của Mỹ với các nước ASEAN là ở mức 181 tỉ USD, trong khi buôn bán của Nhật Bản với ASEAN là 212 tỉ USD. Mỹ và Nhật Bản cũng có những đầu tư trực tiếp lớn trong khu vực. Từ 2006 đến 2008, các nhà đầu tư Mỹ đã đầu tư 12,8 tỉ USD vào các nước ASEAN trong khi mức của Nhật Bản là 25,8 tỉ USD. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc trong khu vực vẫn còn ít trong giai đoạn đó, tổng số là 3,7 tỉ USD. Điều này để nói rằng trong khi các nước Đông Nam Á công nhận những cơ hội lớn ở Trung Quốc, họ tiếp tục coi các quan hệ kinh tế với Mỹ và các nước khác là có tầm quan trọng sống còn.
Buôn bán của Trung Quốc ở Đông Nam Á cũng được theo sau bởi viện trợ phát triển của Trung Quốc. Tháng 10/2009, Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-ASEAN lần thứ 12 đã nhận được một lời hứa của Trung Quốc về khoản đầu tư và tín dụng thương mại tới 25 tỉ USD trong 3 đến 5 năm tới. Vào tháng 12/2009, Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đi thăm Campuchia, ký kết các hiệp định song phương trị giá trên 1 tỉ USD, và Mianma, nơi ông đã ký một số hiệp định, kể cả hiệp định về các dự án kinh tế. Bất chấp nhiều khía cạnh tích cực của việc Bắc Kinh vươn ra châu Á, Mỹ lo ngại về một số khía cạnh của sự giúp đỡ phát triển của Trung Quốc cho khu vực. Trong khi các chương trình phúc lợi xã hội và pháp trị được Mỹ ủng hộ chủ yếu có sức hấp dẫn đối với xã hội dân sự, thì các chương trình viện trợ của Trung Quốc bao gồm những dự án rất rõ ràng, như Sân vận động quốc gia mới của Lào và tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng của Campuchia, có sức hấp dẫn trực tiếp đối với các nhà lãnh đạo khu vực. Hơn nữa, Trung Quốc không ràng buộc viện trợ của mình với sự tiến bộ về cai trị, làm nảy sinh những nghi ngờ về giá trị lâu bền của viện trợ như vậy. Giúp đỡ phát triển có hiệu quả nhất khi được nhằm tăng cường cấu trúc chính trị, xã hội và kinh tế của một xã hội thay vì những dự án nhằm vào giới tinh hoa và tạo ra ảnh hưởng có hạn khắp đất nước đang phát triển này.
Những lợi ích chiến lược
Trung Quốc tin rằng họ cũng có lợi ích chiến lược sống còn trong khu vực, đặc biệt liên quan đến các láng giềng trực tiếp của Trung Quốc, Mianma, Lào và Việt Nam . Trong vài thế kỷ, sự xâm chiếm thuộc địa, sự bất ổn định và chiến tranh kinh niên, sự có mặt quân sự của Mỹ trong những năm 1960 và 1970, và sự có mặt quân sự của Liên Xô trong những năm 1970 và 1980, tất cả được Bắc Kinh coi là những mối đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của họ. Giờ đây, theo quan điểm của Trung Quốc, 2 thập kỷ sau khi Liên Xô rút đi và các lực lượng Việt Nam rút khỏi Campuchia, Đông Nam Á lục địa chưa bao giờ ổn định hơn. Trung Quốc đã ký kết một hiệp định phân định lại các đường biên giới dài bị tranh chấp từ lâu với Việt Nam vào tháng 12/2008 và triển khai một số lực lượng lục quân dọc đường biên giới của nước này với Đông Nam Á lục địa.
Những lợi ích chiến lược của Bắc Kinh ở Đông Nam Á vùng biển đã tăng đáng kể với sự phụ thuộc tăng lên của Trung Quốc vào thương mại biển và các nguồn cung cấp năng lượng nhập khẩu. Các con đường biển chạy qua Đông Nam Á là thuộc một số tuyến đường tấp nập và có tầm quan trọng chiến lược nhất của thế giới. Chúng là những con đường huyết mạch chính của buôn bán đã kích thích sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Trung Quốc và khu vực. Năm ngoái, 80% lượng dầu lửa nước ngoài mà Trung Quốc nhập khẩu là đi qua eo biển Malắcca. Hơn một nửa số đội tàu buôn của thế giới, kể cả một tỉ lệ lớn các tàu buôn treo cờ Trung Quốc, đi qua biển Nam Trung Hoa mỗi năm.
Chính sách ngoại giao thăm hỏi và quyền lực mềm
Bắc Kinh đã triển khai một loạt công cụ ngoại giao và quân sự trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy những lợi ích biển của họ và xây dựng “quyền lực mềm” ở Đông Nam Á. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc duy trì một mức độ dồn dập các chuyến thăm chính thức đến khu vực, đồng thời tiếp đón các chuyến thăm cấp cao đến Bắc Kinh – như một dấu hiệu về sự ưu tiên và tôn trọng đối với các láng giềng châu Á của họ. Chẳng hạn, năm ngoái các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc, kể cả chủ tịch Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Ôn Gia Bảo, đã đi thăm 6 nước ở Đông Nam Á, gồm 4 trong 5 nước lục địa. Trung Quốc cũng sử dụng các chương trình giáo dục và văn hoá để tìm cách tăng cường quyền lực mềm của họ. Trung Quốc đã mở Viện Khổng tử đầu tiên của họ ở châu Á vào năm 2004; hiện nay có 70 viện ở khắp châu Á và 282 viện trên toàn cầu. Chỉ riêng ở Thái Lan có 12 viện, và Trung Quốc gần đây đã mở viện đầu tiên ở Campuchia. Hiện số sinh viên Thái - khoảng 10000 người - học tập ở Trung Quốc nhiều hơn ở Mỹ. Và vào tháng 12/2008, Trung Quốc đã khai trương Đài phát thanh Hữu nghị Trung Quốc –Campuchia. Những ảnh hưởng thực tế của những nỗ lực của Trung Quốc đến cách nhìn nhận của địa phương cũng như sự nhạy cảm về những lợi ích của Trung Quốc vẫn còn là lĩnh vực quan tâm của Mỹ.
Trung Quốc cũng đã mở rộng sự hợp tác và viện trợ quân sự để thúc đẩy những lợi ích của mình trong khu vực. Những sự hợp tác của Trung Quốc bao gồm cung cấp trang bị, xe cộ và vũ khí, các cuộc tập trận và phô diễn quân sự, và đào tạo các sĩ quan nước ngoài ở Trung Quốc.
Các diễn đàn khu vực
Trung Quốc cũng tham gia một số thể chế khu vực, điều tăng cường hình ảnh của họ ở khu vực châu Á và cải thiện các quan hệ của họ với các láng giềng. Sự tham gia đó bao gồm từ các thể chế như ASEAN+3, Tổ chức hợp tác Thượng Hải cho đến các diễn đàn châu Á- Thái Bình Dương rộng lớn hơn như APEC và Diễn đàn khu vực ASEAN. Chúng ta khuyến khích sự can dự của Trung Quốc với những tổ chức này như một biện pháp để hội nhập Trung Quốc vào hệ thống khu vực và hợp tác trong những lĩnh vực cùng quan tâm.
Đường hướng của Mỹ với khu vực
Tổng thống Obama đã tuyên bố rằng Mỹ hoan nghênh sự nổi lên của Trung Quốc và “trong một thế giới liên kết với nhau, sức mạnh không nhất thiết phải là trò chơi được mất ngang nhau.” Mối quan hệ của chúng ta với Trung Quốc ở Đông Nam Á bao gồm cả các yếu tố hợp tác lẫn cạnh tranh. Sự hội nhập kinh tế đã đan kết các nền kinh tế Mỹ, Trung Quốc và Đông Nam Á thành một mạng lưới phức tạp. Chúng ta cũng hợp tác với Trung Quốc thông qua APEC và Diễn đàn khu vực ASEAN, và nhiều thể chế đa phương khác như IMF, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, và Tổ chức Y tế thế giới. Đồng thời Trung Quốc cạnh tranh với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các nước khác về ảnh hưởng ở Đông Nam Á.
Như Ngoại trưởng đã nói trong bài phát biểu của bà hồi tháng 1/2010 về Cơ cấu khu vực ở châu Á: “Chúng ta bắt đầu từ một tiền đề đơn giản: tương lai của nước Mỹ gắn với tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và tương lai của khu vực này phụ thuộc vào nước Mỹ. Mỹ có lợi ích mạnh mẽ trong việc tiếp tục truyền thống lãnh đạo kinh tế và chiến lược của mình, và châu Á có lợi ích mạnh mẽ trong việc Mỹ vẫn là một đối tác kinh tế năng động và có ảnh hưởng quân sự tạo ổn định.” Đông Nam Á là trung tâm trong nỗ lực của chúng ta ở khu vực châu Á–Thái Bình Dương rộng lớn hơn.
Mục đích của chúng ta là đạt được một sự cân bằng ổn định giữa các yếu tố đa dạng trong quan hệ của chúng ta với Trung Quốc khi chúng ta tìm kiếm một sự cân bằng ổn định trong khắp khu vực. Khi ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực tăng lên, một sự có mặt mạnh mẽ tiếp tục của Mỹ trong khu vực sẽ đảm bảo quyền tự do hành động cho các đồng minh và bạn bè của chúng ta, ngăn chặn thái độ cư xử hung hăng tiềm tàng, và bảo vệ những lợi ích chiến lược của chúng ta ở Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực không phải là mối đe dọa đối với những lợi ích của Mỹ chừng nào mà nó hỗ trợ cho sự ổn định khu vực, nền kinh tế Mỹ tiếp tục hùng mạnh, các liên minh và các mối quan hệ đối tác của chúng ta vẫn mạnh mẽ, quyền tự do hàng hải và tiếp cận được giữ gìn như một lẽ phải thông thường, và các nước thân thiện trong khu vực nhận thấy sự có mặt của Mỹ là cần thiết.
Người ta nói rằng để theo đuổi ngoại giao thành công ở Đông Nam Á, tất cả những gì anh phải làm là “thể hiện ra”. Đây là một tiêu chuẩn quá thấp và chính quyền này sẽ làm nhiều hơn. Trước chính quyền này, đôi lúc Mỹ đã không đạt được tiêu chuẩn này – các tổng thống đã bỏ lỡ các hội nghị thượng đỉnh APEC; các ngoại trưởng đã bỏ lỡ các cuộc họp của Diễn đàn khu vực ASEAN; các quan chức cấp cao Mỹ không sử dụng đủ thời gian hướng về các mối quan hệ song phương khu vực. Bức thông điệp của chính quyền Obama để giải quyết vấn đề này là đơn giản: chúng ta đang trở lại và sẵn sàng can dự tích cực. Tổng thống đã có một chuyến thăm thành công đến Xinhgapo tháng 11 năm ngoái liên quan đến Hội nghị thượng đỉnh APEC và sẽ đi thăm khu vực này một lần nữa vào nửa đầu năm nay. Ngoại trưởng Clinton đã đi thăm khu vực 3 lần năm ngoái và sẽ ưu tiên khu vực này năm nay và những năm tới.
Thể hiện ra là cần thiết nhưng không phải là cơ sở đầy đủ cho sự can dự thành công. Chính quyền này cũng đang theo đuổi hoạt động ngoại giao mạnh mẽ và sáng tạo. Chúng ta đã truyền đạt đến bạn bè chúng ta ở Đông Nam Á rằng chúng ta sẵn sàng mở rộng và làm sâu sắc thêm những quan hệ của chúng ta, thúc đẩy sự hợp tác vượt ra ngoài giọng điệu hùng biện trong những lĩnh vực có giới hạn, kể cả chống khủng bố.
Thể hiện cam kết của chúng ta với khu vực, vào tháng 7/2009 Ngoại trưởng Clinton đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác, điều mà ASEAN đã tìm kiếm từ Mỹ trong 2 thập kỷ nay. Bà cũng tham dự cuộc họp của Diễn đàn khu vực ASEAN ở Phuket hồi tháng 7. Tháng 2/2009, bà là Ngoại trưởng Mỹ đầu tiên đến thăm trụ sở khu vực của ASEAN ở Giacácta. Tổng thống Obama đã tổ chức cuộc họp cấp tổng thống đầu tiên cho đến nay với những người đứng đầu nhà nước và chính phủ của ASEAN + 10 trong chuyến thăm Xinhgapo của ông vào tháng 11/2009 và ông đã tham dự cuộc họp của các nhà lãnh đạo APEC. Mỹ cũng có ý định cử một đại sứ tại ASEAN đóng trụ sở ở Giacácta và, để hỗ trợ ý định của tổng thống can dự đầy đủ hơn với các tổ chức khu vực mới, sẽ bắt đầu các cuộc trao đổi ý kiến với các đối tác châu Á về cách thức Mỹ có thể đóng một vai trò ở Hội nghị thượng đỉnh Đông Á.
Chúng ta đang xây dựng một mối quan hệ đối tác toàn diện với Inđônêxia, điều đang tăng cường mối quan hệ song phương cũng như sự hợp tác và tham khảo ý kiến của chúng ta với nhau về các vấn đề khu vực và toàn cầu. Chúng ta đang xây dựng một mối quan hệ nồng ấm hơn với Malaixia. Chúng ta đã khẳng định lại cam kết của chúng ta với các đồng minh của chúng ta ở Thái Lan và Philíppin và làm sâu sắc thêm mối quan hệ đối tác của chúng ta với các nước như Xinhgapo và Việt Nam . Và vào tháng 7/2009 chúng ta đã loan báo Sáng kiến Hạ lưu lòng chảo sông Mê công, bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam .
Cam kết tiếp tục lại của chúng ta với Đông Nam Á đã được hoan nghênh rộng rãi và những cơ hội cho sự can dự hơn nữa đang tăng lên ở một khu vực đang tìm kiếm sự đa dạng trong các quan hệ đối ngoại và buôn bán của mình. Đối với Mianma, trong nhiều thập kỷ chế độ Mianma đã tự cô lập mình bằng việc phớt lờ những kết quả của cuộc bầu cử 1990, bỏ tù hàng nghìn người vì những lý do chính trị, từ chối đối thoại với phe đối lập đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử cạnh tranh gần đây nhất, và cai trị bằng sắc lệnh quân sự. Mỹ và phần lớn cộng đồng quốc tế đã đáp lại bằng những hình phạt và giữ khoảng cách với chế độ Mianma. Trung Quốc đã có những quan hệ mạnh mẽ hơn với Mianma và trở thành ngoại lệ đối với lập trường của phần lớn cộng đồng quốc tế.
Ngoại trưởng Clinton đã chỉ đạo cho chúng tôi đánh giá chính sách về Mianma của chúng ta vì không đường hướng dựa trên hình phạt nào do Mỹ chủ trương cũng như không sự can dự nào do các nước khác ủng hộ đem lại các kết quả tích cực. Do vậy chúng ta hiện theo đuổi đối thoại trực tiếp, cấp cao với nhà cầm quyền Mianma. Trong cuộc đối thoại đó chúng ta nêu ra những mong đợi về một nước Mianma dân chủ và bảo vệ quyền của nhân dân mình. Chúng ta nêu rõ rằng những hình phạt sẽ chỉ được bãi bỏ để đáp lại những hành động cụ thể của nhà cầm quyền Mianma.
Các đồng minh của Mỹ cũng can dự ở Đông Nam Á; chẳng hạn, hồi tháng 11/2009 Nhật Bản đã chủ trì Hội nghị cấp cao Nhật Bản-Mê công lần đầu tiên từ trước đến nay, tại đó họ đã cam kết hơn 5 tỉ USD giúp đỡ phát triển. Hàn Quốc tiếp tục vươn ra Đông Nam Á về kinh tế, và xu hướng đó đã được mở rộng theo “sáng kíến châu Á mới” của Tổng thống Lee.
Các vấn đề về biển
Mỹ từ lâu đã có lợi ích mang tính sống còn trong việc duy trì sự ổn định, quyền tự do đi lại trên biển, và quyền tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp trong vùng biển của Đông Á. Trong nhiều thập kỷ, sự can dự tích cực của Mỹ ở Đông Á, trong đó có sự hiện diện được triển khai phía trước của các lực lượng Mỹ, là nhân tố chính trong việc duy trì hòa bình và gìn giữ những lợi ích đó.
Chúng ta đã nỗ lực ủng hộ sự tôn trọng đối với luật pháp quốc tế thông thường, như được phản ánh trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Mặc dù Mỹ vẫn chưa phê chuẩn Công ước này, nhưng Chính quyền này và các chính quyền tiền nhiệm của nó ủng hộ việc làm như vậy, và trên thực tế, Mỹ tuân thủ các điều khoản của Công ước quy định việc sử dụng theo truyền thống các đại dương.
Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Philíppin, Malaixia, Inđônêxia và Brunây mỗi bên đều có yêu sách chủ quyền đối với các phần của biển Nam Trung Hoa, trong đó có các vùng biển và các địa phận trên đất liền. Quy mô yêu sách của mỗi bên rất khác nhau, mức độ mạnh mẽ mà họ khẳng định cũng vậy. Những yêu sách tập trung vào chủ quyền đối với 200 hòn đảo nhỏ, bãi đá và vỉa đá ngầm tạo nên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 2002, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Nam Trung Hoa”. Trong khi không mang tính ràng buộc, Tuyên bố này đề ra những nguyên tắc hữu ích, chẳng hạn như tất cả các bên yêu sách cần phải “giải quyết các tranh chấp… bằng các biện pháp hòa bình” và “tự kiềm chế”, và họ “tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của họ đối với quyền tự do đi lại trên biển và quyền bay qua trên biển Nam Trung Hoa, như được quy định bởi những nguyên tắc được tất cả mọi người công nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982”.
Văn kiện năm 2002 đã báo hiệu sự sẵn sàng giữa các bên yêu sách đối với việc tiếp cận tranh chấp này một cách đa phương. Chúng ta đã hoan nghênh hiệp định này, hiệp định đã giảm bớt những căng thẳng giữa các bên yêu sách và tăng cường ASEAN với tư cách là một thể chế, và chúng ta ủng hộ những nỗ lực nhằm tăng cường Tuyên bố này bằng việc đưa ra Bộ quy tắc Ứng xử mang tính ràng buộc dựa trên những nguyên tắc của Tuyên bố.
Chính sách của Mỹ tiếp tục là chúng ta không ủng hộ những yêu sách pháp lý tranh giành nhau đối với chủ quyền lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, chúng ta hết sức lo ngại khi chứng kiến bất kỳ nỗ lực nào nhằm làm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Chúng ta cũng lo ngại về “các vùng lãnh hải” hay bất kỳ vùng biển nào không dính với một vùng lãnh thổ đất liền. Những yêu sách về biển như vậy không phù hợp với luật pháp quốc tế thông thường, như được phản ánh trong Luật về Công ước Biển.
Trong trường hợp có những yêu sách mâu thuẫn nhau ở biển Nam Trung Hoa, chúng ta khuyến khích tất cả các bên theo đuổi các giải pháp phù hợp với UNCLOS, và các hiệp định khác đã được đưa ra giữa ASEAN và Trung Quốc. Chúng ta cũng hối thúc tất cả các bên yêu sách thực hiện kiềm chế và tránh những hành động gây hấn để giải quyết những yêu sách đối lập nhau. Chúng ta đã tuyên bố rõ ràng rằng chúng ta phản đối sự đe dọa hay sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp, cũng như bất kỳ hành động nào cản trở quyền tự do đi lại trên biển. Chúng ta mong muốn chứng kiến một giải pháp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Chúng ta vẫn lo ngại về tình trạng căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam , khi cả hai nước đều tìm cách khai thác các trữ lượng dầu lửa và khí đốt tiềm tàng dưới biển Nam Trung Hoa. Bắt đầu vào mùa Hè năm 2007, Trung Quốc đã yêu cầu một số công ty dầu lửa và khí đốt của Mỹ và nước ngoài chấm dứt hợp tác thăm dò với các đối tác Việt Nam ở biển Nam Trung Hoa hoặc phải đối mặt với những hậu quả không xác định rõ trong những giao dịch kinh doanh của họ với Trung Quốc.
Chúng ta phản đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm đe dọa các công ty Mỹ và đi ngược lại tinh thần của các thị trường tự do. Trong chuyến thăm tới Việt Nam hồi tháng 9/2008, Thứ trưởng Ngoại giao lúc đó là John Negroponte đã khẳng định các quyền của các công ty Mỹ hoạt động ở biển Nam Trung Hoa và tuyên bố chúng ta tin rằng những yêu sách tranh chấp cần phải được giải quyết một cách hòa bình và không sử dụng bất kỳ hình thức hăm dọa nào. Chúng ta đã bày tỏ trực tiếp những mối lo ngại của chúng ta với Trung Quốc. Những tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia không nên được giải quyết bằng việc tìm cách gây sức ép với các công ty không phải là bên tranh chấp.
Kết luận
Việc Trung Quốc vươn ra biển Nam Trung Hoa là điều tự nhiên do sự gần gũi về mặt địa lý của nước này, do các mối quan hệ kinh tế và văn hóa trong lịch sử của nó, và sự tăng trưởng năng động của Trung Quốc. Chúng ta mong muốn Trung Quốc hòa hợp với các nước láng giềng của họ, bởi vì một khu vực hòa bình và ổn định hỗ trợ cho những lợi ích của Mỹ. Chúng ta hoan nghênh sự can dự của Trung Quốc trong khu vực và hướng tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc cũng như các đối tác của chúng ta trong khu vực. Gia tăng đối thoại giữa Trung Quốc và các cổ đông chủ chốt của khu vực và sự công khai minh bạch nhiều hơn đối với tất cả các bên có thể đảm bảo chắc chắn rằng sự ổn định vẫn được duy trì và sự phát triển kinh tế được tiếp tục trên một con đường tích cực ở châu Á, và sự can dự tích cực của Mỹ sẽ đóng một vai trò then chốt trong việc đem lại điều này, và trong việc đảm bảo những lợi ích chiến lược của Mỹ trong khu vực quan trọng này.
Xin cám ơn quý vị đã cho tôi cơ hội được điều trần trước quý vị ngày hôm nay về chủ đề quan trọng này. Tôi xin hoan nghênh các câu hỏi của quý vị.
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...