Chương Putin đang khép lại?

Không gặp trở ngại nào từ phe đối lập, thắng lợi của ông Putin rõ ràng là có thể biết trước được. Tuy nhiên, có một điều gì đó mà ai cũng thấy là không ổn. Kiệt sức, chế độ Putin từ nay không có chỗ đứng trong lòng dân chúng nữa bởi vì mối liên hệ vốn rất mong manh giữa nước Nga và tổng thống giờ đây đã bị cắt đứt.

Từ chương lịch sử nhằm rửa “mối nhục” của những năm 1990, khi trên những đống tro tàn của chủ nghĩa Xôviết, người ta thấy xuất hiện công khai những sự bất bình đẳng rõ rệt ngay trong lòng một xã hội bình đẳng giả tạo, và nước Nga đã đột ngột bị mất đi qui chế cường quốc. Trước sự tổn thương này, Putin đã đóng vai là người cứu vớt – giống như một nhà phẫu thuật cho một cơ thể ốm yếu – để mang lại cho người dân Nga một cái gì đó giống như niềm tự hào, thông qua ba cơ chế của Sa hoàng Nicolas đệ Nhất: Nhà nước – lòng yêu nước – tôn giáo. Sa hoàng Nicolas đệ Nhất, người đã trị vì nước Nga từ năm 1825 đến 1855, đã thiết tha với việc bảo vệ quyền tự trị, tính chính thống và tính “dân tộc”. Ông đã tiến hành trấn áp cuộc nổi dậy ở Ba Lan từ 1830 đến 1831 và đè bẹp cuộc cách mạng của Hunggari vào năm 1849 khiến cho ông bị đặt biệt danh là “sen đầm của châu Âu”.

Toàn bộ nghệ thuật của ông Putin là ở chỗ làm cho người dân Nga tin rằng họ có thể tìm lại được tầm vóc của họ trên các cơ sở này. Đây là một trong vô số những ảo tưởng mà lịch sử của nước Nga đã đưa ra với dân chúng của nước mình. Trong những năm 2000, không một triển vọng nào dành cho các tầng lớp tinh hoa dân tộc trở thành hiện thực: không có các cuộc cải cách sâu sắc, không có sự đổi mới, không có gì có thể thúc đẩy đất nước này trở lại chính mình trong thế kỷ 21 bất chấp nó có những tiềm lực mạnh mẽ. 

Trái lại, chế độ Putin đã biến nước Nga thành một đế chế khổng lồ khát dầu lửa, dựa vào sự liên kết của nhà nước với các cơ quan đặc biệt. Một cách nhìn thiển cận về lịch sử nhưng lại có lợi về kinh tế khi một thùng dầu có giá là 120 USD (so với 27 USD vào năm 2000, năm Putin lên cầm quyền). Dầu lửa chiếm 2/3 thu nhập của Liên bang Nga, và nguyên liệu (giá tăng vọt do nhu cầu mạnh mẽ của Trung Quốc) chiếm 85% hàng xuất khẩu của Nga. 

Nước Nga là hình mẫu của một nền kinh tế lợi nhuận: cổ hủ, hoàn toàn không thích hợp với dữ kiện chính trị mới, phi sản xuất nhưng cho phép – trong một thời gian nào đó – dùng tiền từ việc bán dầu lửa để mua nền hòa bình xã hội, giống như Vênêxuêla và Angiêri. 

Điều đặc biệt nhất – và cũng là điều đáng buồn nhất – là vị cựu trung tá của cơ quan tình báo Liên Xô (KGB), bị giằng xé trước một chứng tâm thần hoang tưởng bị bao vây thực sự, đã nhốt đất nước mình trong một chiếc hộp kín gần như là tự kỷ. Bằng cách chống lại phương Tây một cách có hệ thống, trong một thời gian dài kỷ lục, ông đã thành công trong việc đưa nước Nga thoát khỏi không gian văn minh của phương Tây, điều đã được dùng làm la bàn cho các tầng lớp tinh hoa từ khi thực hiện công cuộc Cơ Đốc hóa nước Nga ở thế kỷ thứ 10. Cả xiềng xích của Tarta, cả các sa hoàng tàn bạo nhất lẫn các Tổng Bí thư đảng Cộng sản đều chưa bao giờ làm được một việc như vậy. Nhưng đó là phương Tây nào vậy? Trong suy nghĩ của Vladimir Putin, câu trả lời là rõ ràng. Đó là phương Tây đã làm vẩn đục thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Đó là phương Tây đã tiến hành can thiệp vào Libi mà phớt lờ sự phản đối của Nga. Đó là phương Tây ngày đêm nung nấu ý đồ chống lại nước Nga và tài trợ cho các phần tử đối lập “làm tay sai cho CIA”. Tóm lại, phương Tây này đang suy tàn. Một phương Tây khiến nước Nga thất vọng và đến một ngày nào đó nước Nga có thể thay thế nó. Dùng lại khái niệm về thành Rome thứ ba, ông Putin hứa sẽ tán thành một phương Tây “khác” chính nghĩa hơn và cao thượng hơn. Thuyết xuất hiện vào thế kỷ 16 cho rằng nước Nga nắm giữ tính xác thực về đức tin Cơ Đốc giáo sau sự sụp đổ của Rôm. Xét theo góc độ này, điều được coi là hài hước khi ông nói: “Từ khi Grandi mất đi, tôi không thấy một nhà dân chủ nào nói đến nó nữa”. 

Ngay sau khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống và những tiến triển tình hình vừa qua, điều trở nên rõ ràng là các đầu máy chính của chế độ Putin đều đang dẫm chân tại chỗ. 

Trước hết, việc tăng cường tự xưng Nhà nước đã dẫn đến việc tạo ra một lĩnh vực công phình to, không có hiệu quả và tham nhũng. Theo bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, nước Nga xếp ở vị trí thứ 143 trên thế giới về nạn tham nhũng. Một nạn tham nhũng lan lên tới tận cấp chóp bu của Nhà nước. 

Thứ hai, lòng yêu nước đã chuyển thành chủ nghĩa liên Xlavơ đáng lo ngại. Sự thù hận người nước ngoài – bất kỳ ai không có nước da trắng và mắt xanh – là một thứ thuốc độc đang gặm nhấm xã hội Nga. Những lời lăng nhục mang tính phân biệt chủng tộc diễn ra trên các sân vận động nơi những cầu thủ châu Phi đá bóng. Và khẩu hiệu “Nước Nga dành cho người Nga” không gặp phải sự phản đối nào từ giới lãnh đạo Nga. 

Thứ ba, tính chính thống – được bộ máy tuyên truyền của Nhà nước coi là tính chất tinh hoa của bản sắc Nga – làm gia tăng khả năng hành động bằng cách nâng thuyết định mệnh lên thành vấn đề đạo đức. Bị cản trở bởi suy nghĩ cổ hủ này, nước Nga đã không tự khẳng định được mình trong cuộc cạnh tranh quốc tế và hợp tác với các nước khác trong nhóm BRIC (Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc). 

Những sự biến đổi của xã hội Nga 

Các thanh niên Nga giờ đây không có nhiều điểm chung với nước Nga trước đây. Nỗi sợ hãi đã mất đi. Các đường biên giới đã mở. Thế giới đã thay đổi nhiều. Nước Nga, không hơn gì các nước khác, cũng không tránh được tiến trình toàn cầu hóa và các công nghệ mới đang phổ biến tràn lan trên khắp năm châu. 

Nhờ có Internet, một xã hội dân sự Nga đang nở rộ. Một tầng lớp trung lưu mới đang trỗi dậy, những người này đi nghỉ ở các đảo Canarie, ngắm nhìn các kiệt tác ở bảo tàng Louvre, sử dụng thành thạo iPhone và iPad, lái những chiếc xe hơi hạng sang. 

Chính tầng lớp trung lưu này giờ đây lại đang phản đối chế độ Putin – một chế độ mà họ chỉ trích là làm cho tương lai của nước Nga đen tối. Bất chấp thời tiết giá lạnh, đám đông đã xuống đường ở thủ đô Mátxcơva, ở thành phố Saint – Petersburg, ở Tomsk, Samara... – một sự kiện chưa từng thấy tại một đất nước – châu lục với lịch sử hàng nghìn năm. 62% người biểu tình có độ tuổi từ 18 đến 44, và 75% trong số họ đã tốt nghiệp đại học. Vì vậy, đây không phải là một cuộc nổi dậy của những kẻ nghèo khổ, mà là của những “tinh hoa” ra đời từ những sự biến đổi thời hậu Liên Xô, họ đã chán ngấy một chế độ chính trị không chịu hiểu xu thế tất yếu của thế giới. Thực sự, điều mà xã hội dân sự Nga bác bỏ là “nền dân chủ có định hướng” do các “nhóm tư vấn” của điện Cremli đưa ra, dưới sự chỉ đạo của Vladislav Sourkov, Phó Thủ tướng của liên bang Nga. 

Quan niệm này dựa vào giả thuyết cho rằng người Nga về mặt di truyền học là không thích hợp với nền dân chủ. Nó có thể được so sánh với một cách nhìn nào đó của phương Tây về thế giới Arập – Hồi giáo đang thắng thế trước khi diễn ra cơn bão “Mùa Xuân Arập”. Dù sao thì nó cũng chứng tỏ một sự rất coi thường đối với người dân Nga, những người đã thể hiện mình một cách sáng chói thông qua tầm trí thức quá cao sang của mình. 

Hố ngăn cách giữa xã hội và bộ máy cầm quyền 

Trước những đòi hỏi cấp bách của sự toàn cầu hóa, xã hội Nga (ít nhất là tầng lớp dân đô thị và có giáo dục) cũng rục rịch và bắt đầu nghĩ tới tương lai, tầng lớp lãnh đạo thì tỏ thái độ cứng rắn và luyến tiếc quá khứ. Sự năng động ở cấp cơ sở xung đột với khát vọng giữ nguyên trạng ở cấp chóp bu. Trong bối cảnh này, Putin không còn xuất hiện như một yếu tố giải pháp nữa mà là một vấn đề thực sự đối với nước Nga ngày mai. Để mở ra triển vọng cho đất nước mình, ông sẽ phải từ bỏ quyền lực. Nhưng nhường chỗ cho ai? Và để làm gì? 
Xung quanh ông, diễn đàn chính trị đã bị tàn phá. Một sự trống rỗng: không có các thể chế để có thể thực hiện sự thay đổi; không có phe đối lập thực sự có cơ cấu; và nhất là không có truyền thống dân chủ ăn sâu bén rễ trong lịch sử. Ngoài vài đợt chuyển tiếp, nước Nga chỉ trải qua những chế độ cưỡng bức, độc đoán, vận hành theo mô hình “từ trên xuống dưới”. Không nên dựa vào cả những người Cộng sản “kín như bưng” của Guennadi Ziuganov lẫn những người theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan của Jirinovski, đệ tử của một nước Nga “bài ngoại”. Càng không nên dựa vào hai ứng cử viên khác trong cuộc tranh chức tổng thống: Mironov với chương trình hoàn toàn trống rỗng và nhà tỷ phú Prokhorov. 
Tấn thảm kịch thực sự của nước Nga là không có đảng nào xứng đáng để nắm quyền thực sự, không có nhà chính trị nào đủ kinh nghiệm và có sức hấp dẫn mang đến những dự án và một cuộc tranh cãi về những ý tưởng trái ngược nhau do các phương tiện thông tin đại chúng độc lập xới lên. 

Người ta buộc lòng phải thừa nhận rằng sự thức tỉnh xã hội đã không tạo ra một bối cảnh chính trị mới. Những sự nghi kỵ giới hạn ở những bộ luật về ứng xử của tầng lớp riêng của họ và không làm nảy sinh những ý tưởng có khả năng tập hợp các thành phần khác nhau trong xã hội Nga thành liên bang. Trong giai đoạn hiện nay, nước Nga đang ở trong tình trạng của tháng 5/1968 (phong trào tranh cãi rộng khắp về chính trị, xã hội và văn hóa phát triển ở Pháp, sau đó ở châu Âu) chứ không phải là “Mùa Xuân Arập” hay cuộc “Cách mạng sắc màu”. Những gương mặt phản kháng không hề ảnh hưởng đến tiến trình mang tính quyết định bị Putin và các cộng sự của ông phong tỏa. Phe đối lập quá tạp nham và quá chia rẽ: từ Alexei Navalny, người phát ngôn của nước Nga về các mạng lưới xã hội không có một cơ sở chính trị nào, đến nhà Cộng sản mới Serguei Udaltsov, người bác bỏ toàn bộ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thế giới và phương Tây, cả Boris Nemtsov, người sống sót duy nhất từ làn sóng tự do vào đầu những năm 1990. Điều đáng ngạc nhiên là không một đảng xã hội – dân chủ nào xuất hiện trong khi các cuộc cải cách do Mikhail Gorbachev thực hiện vào cuối những năm 1980 đã mở đường cho một sự tái tạo như vậy. 

Ba kịch bản 

Trong bối cảnh này, có 3 kịch bản đã được tính đến: 

Thứ nhất, hệ thống chính trị bùng nổ dưới sức ép của đường phố. Khi đó, ông Putin sẽ từ chức, từ bỏ việc hoàn thành nhiệm kỳ của mình (kéo dài cho đến năm 2018). Một chính phủ tạm thời, ra đời từ một liên minh rộng lớn gồm những kẻ có tư tưởng cực đoan, lên nắm quyền, tiến hành sửa đổi hiến pháp của năm 1993 và biến nước Nga thành một nước cộng hòa nghị viện mô phỏng theo nền Cộng hòa đệ tứ của Pháp. 

Thứ hai, cuộc tranh cãi lại gia tăng. Tổng thống Nga đã củng cố vị trí của mình bằng cách thu hút sự ủng hộ của những người nghèo, thực hiện các chính sách xã hội được tài trợ bằng các khoản tiền trời cho từ dầu lửa. Nước Nga, tù nhân của những con quỉ già, vẫn tiếp tục dao động giữa sự tước đoạt và thuyết định mệnh. Vì vậy, Putin sẽ đi đến cùng hai nhiệm kỳ của mình. Sau hết, vào năm 2024, khi đó Putin 72 tuổi, độ tuổi mà một số lão làng Liên Xô ngày xưa còn chưa bắt đầu con đường công danh của mình. Đất nước lại trở về trạng thái trì trệ và tiếp tục sống bằng khoản tiền thu được từ khí đốt và dầu lửa, uốn mình giữa sự giàu có về kinh tế dành cho bộ máy thư lại mới và sự nghèo nàn về dân chủ, bất chấp những lợi ích lâu dài của các công dân của mình.

Giả thuyết thứ ba và cũng có khả năng xảy ra nhất: nước Nga rơi vào tình trạng chuyển tiếp. Trong khi một phe đối lập chính trị được tổ chức một cách chậm chạp thì nền kinh tế trì trệ: hiện nay, để cân bằng ngân sách đang bị suy giảm do gánh nặng quá mức của các chi phí công, nước Nga cần một thùng dầu giá là 125 USD trong khi bối cảnh của các thị trường thế giới vẫn bất ổn và không thể lường trước được. Sự suy giảm dân số vẫn tiếp tục diễn ra, nhất là vì không có an sinh xã hội: tỷ lệ tử vong cao hơn tỷ lệ sinh. Tuổi thọ trung bình của nam giới mới vượt qua ngưỡng 60 tuổi. Sản xuất sụt giảm nghiêm trọng. Đất nước không thu hút được vốn đầu tư cần thiết cho sự phát triển. Bị kẹt trong tình trạng đâm lao thì phải theo lao, Putin đã thông báo tiến hành các cuộc cải cách nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề cơ bản. Cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra vào năm 2016 sẽ đánh dấu, theo triển vọng này, một giai đoạn mang tính quyết định: khai thông một đa số đối lập và dẫn đến một sự cùng chung sống về chính trị. Không thể làm cho đất nước phát triển được, Putin vẫn bám lấy quyền lực nhưng bị thua trong cuộc bầu cử tổng thống diễn ra vào năm 2018 trước một kẻ thách đấu mà danh tính hiện giờ vẫn chưa biết được, nhưng chắc chắn là sẽ hòa nhập vào trong sự vận hành của mình những thực tế của sự toàn cầu hóa đang diễn ra. 

Xin nhắc lại, trong 3 kịch bản trên, kịch bản cuối cùng dường như là có tính thực tế nhất và cũng là khả dĩ nhất. 

Địa chiến lược của nước Nga: Hướng tới tương lai 

Vậy chính sách đối ngoại của “tân” Tổng thống Putin là gì? Hơn bao giờ hết, nó dường như là sự tiếp nối chính sách đối nội của nước Nga và có thể tóm tắt bằng hai từ “cứng rắn”, cùng với việc bảo vệ những lợi ích quốc gia và nguyên tắc không can thiệp làm trung tâm trong địa chiến lược của điện Cremli. Xu hướng này thể hiện rõ trong những vấn đề nóng bỏng diễn ra trong thời gian qua – Xyri và Iran – nơi Nga đã chứng tỏ khả năng cản đường của mình. 

Mỹ vẫn là mục tiêu đầu tiên trong chính sách chống phương Tây của Nga. Luận thuyết chống Mỹ luôn tìm thấy những tín đồ tại một đất nước mà ở đó, theo trung tâm nghiên cứu Levada, 73% người dân Nga coi Mỹ là “một kẻ xâm lược muốn kiểm soát toàn thế giới”. Điều kỳ lạ là sự căm ghét Mỹ tới mức khó tin này của người Nga, cũng như ở thời kỳ Liên Xô, lại kèm theo một sự thôi miên của người Nga đối với tính hiệu quả và sức mạnh của Mỹ. Thái độ chống Mỹ được dùng làm bình phong che đậy việc thực hiện một chương trình tái vũ trang mới đã được Tổng thống Putin thông báo, nhất là thông qua việc lắp đặt hệ thống lá chắn tên lửa ở thành phố Kaliningrad để “đáp trả những hành động khiêu khích của Mỹ”. Tuy nhiên, người Nga vẫn tự hỏi về tính thực tế của chương trình này do sự suy giảm của bộ máy công nghiệp Nga và những khó khăn về tài chính ở trong nước. 

Châu Âu không và sẽ không phải là một ưu tiên, nhưng châu Âu được người Nga nhìn nhận thông qua lăng kính đúp: một là nơi tập hợp xuất khẩu khí đốt và một nữa là “nền văn minh của các môn giải trí” có thể đón nhận những người Nga giàu có tới nghỉ ngơi và con em của họ vào các trường đại học danh tiếng. Nhưng không phải là một chủ thể toàn cầu. Dù sao thì các nhà phân tích Nga cũng chưa bao giờ coi trọng việc xây dựng châu Âu và vẫn tin rằng Liên minh châu Âu “sẽ kết thúc giống như Liên Xô”. 

Tuy nhiên, thái độ chống Mỹ sẽ có lúc phải tạm lắng xuống với việc diễn ra Thế vận hội Olympic tại Sochi vào năm 2014. Putin đang muốn biến sự kiện thể thao lớn này thành “lễ đăng quang” của ông và để làm được điều đó thì ông cần phải có được một thỏa thuận quốc tế. Bóng ma của Thế vận hội Olympic Mátxcơva hồi năm 1980, bị phương Tây tẩy chay (trừ Pháp) do Liên Xô can thiệp vào Ápganixtan, vẫn ám ảnh các nhà lãnh đạo cầm quyền hiện nay ở Cremli. 

Bị phương Tây làm cho thất vọng, Nga vẫn kiên trì trong việc hướng tới châu Á của mình. Nga của Putin đã thường xuyên nhắc tới bản sắc Âu – Á của mình được thể hiện tượng trưng bằng con chim đại bàng hai đầu, với một đầu hướng về phía Tây và một đầu hướng về phía Đông. Với biểu tượng đại bàng hai đầu này, Cremli đã đưa ra một thuyết đại thể như sau: “Về mặt lịch sử, nước Nga được cân bằng giữa châu Âu và châu Á, và dù các nền văn hóa châu Âu và Cơ Đốc giáo đã ảnh hưởng đến tiến trình văn minh của nước Nga, thì một phần lớn bản sắc Nga vẫn được tạo nên từ các yếu tố của châu Á, đấy là các dân tộc nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ láng giềng, cũng như Trung Quốc, Ấn Độ và Iran. 

Sự tái cân bằng của nền ngoại giao Nga dựa vào hai mũi xung kích: nhóm Thượng Hải (Tổ chức hợp tác Thượng Hải) là một tổ chức liên chính phủ cấp khu vực gồm Nga, Trung Quốc, Cadắcxtan, Cưrơgưxtan, Tátgikixtan và Udơbêkixtan, do các tổng thống của các nước Âu – Á này thành lập ở Thượng Hải vào tháng 6/2001. Và Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một tổ chức chính trị, kinh tế và văn hóa, thành lập vào năm 1967 tại thủ đô Băngcốc của Thái Lan trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh đang ở thời điểm cao trào, để ngăn chặn các phong trào Cộng sản, cụ thể là cuộc chiến tranh Việt Nam để chống lại mối đe dọa Cộng sản. Chủ nghĩa tích cực của Nga đối với các tổ chức này mà người ta tin là giờ đây đã bị chôn vùi dưới đống đổ nát của cuộc Chiến tranh Lạnh không có gì đáng ngạc nhiên cả. Nga dựa vào nó để chống lại “sự bá quyền của Mỹ” trong khu vực Thái Bình Dương và tự khẳng định mình trong vai trò tập hợp các phong trào xuyên châu Á và xuyên quốc gia. Theo tinh thần của các nhà ngoại giao Nga, sự năng động về kinh tế trong khu vực này có thể tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng của vùng Xibêri và vùng Viễn Đông của Nga. Thêm vào đó còn có một nhân tố khác, đó là thông qua ASEAN, Nga hy vọng sẽ tiếp cận được các thị trường mới đầy hứa hẹn để xuất khẩu vũ khí, nhất là Inđônêxia và Malaixia. 

Nước Nga trước những “nước ngoài gần” 

Nhưng điểm mấu chốt thực sự trong địa chiến lược mới của ông Putin là dự án “Liên minh Âu – Á” của ông. Dự án này nhằm đưa “nước ngoài gần”, tức là các nước thuộc Liên Xô trước đây, trở lại quĩ đạo của Nga thông qua những sức ép về kinh tế. Cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô đã từng là “Thảm họa lớn nhất trong thế kỷ 20”, Putin đã không ngừng tái tạo nó. Nhưng cơ may thành công dường như rất ít bởi vì Nga không có đủ các phương tiện để thực hiện tham vọng của mình, và phần lớn các nước thuộc Liên Xô trước đây đều đã lật qua trang lịch sử Liên Xô và luôn giữ khoảng cách với nước láng giềng lớn của mình. 

Thực tế là Nga, vẫn cố lặp lại quá khứ thay vì tiến lên phía trước, đã phải vất vả để tìm chỗ đứng của mình trong mối tương quan lực lượng thế giới mới. Đối mặt với cuộc cạnh tranh giữa các cực – Trung Quốc, Braxin, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Cata – những nước này vẫn đang hướng tới tương lai với chủ nghĩa thực dụng, còn Nga đang dần bị tụt hậu, đấy là điều không khó nhìn thấy. 

Chiến lược nào của phương Tây đối với Nga? 

Phương Tây có thể làm gì – đặc biệt là châu Âu và Pháp – trước Nga? Cuối cùng là không làm được điều gì cả, bởi vì những đòn bẩy ảnh hưởng của họ còn rất hạn chế. 

Sử dụng sự răn đe về quân sự chăng? Không thể tưởng tượng được. Cô lập Nga về chính trị chăng? Một sự lựa chọn vô nghĩa. Trừng phạt kinh tế chăng? Cũng vô ích và không hiệu quả đối với một đất nước rộng lớn có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Giáo dục hay răn đe chăng? Chắc chắn thất bại vì đó là một con người tự kỷ. Bất kỳ hành động nào của phương Tây đều sẽ bị coi là một sự can thiệp vào công việc nội bộ của Nga và sẽ dẫn đến kết quả trái với mong đợi. 

Vậy thì phải làm thế nào? Trước hết, cần phải không sợ Putin. Đó là một nhà lãnh đạo mà ảnh hưởng đối với nước Nga như nước thủy triều xuống. Cũng cần phải hiểu rằng sự thay đổi chỉ có thể đến từ bên trong chế độ. Chính người Nga, chứ không phải phương Tây, nắm chiếc chìa khóa về tương lai của họ. Các chính sách đối nội và đối ngoại liên quan chặt chẽ với nhau: chừng nào Nga vẫn là một nhà nước độc đoán, thì Nga sẽ vẫn cư xử không thân thiện, thậm chí hiếu chiến đối với phần còn lại của thế giới. Và vì vậy:

1/ Đối mặt với thách thức mới này, các nước phương Tây vẫn phải đoàn kết và nhất trí với nhau. Không có chuyện tái diễn những sai lầm của những năm 1930 khi các nước phương Tây phản ứng lại các chế độ cực quyền đang bị phân tán. Toàn bộ châu Âu – Đại Tây Dương phải có cùng một tiếng nói với Nga, vượt lên trên những sự chia rẽ giữa Liên minh châu Âu và Mỹ. Các nhà lãnh đạo Nga chỉ hiểu được ngôn ngữ về sự cương quyết. Họ chỉ nhạy cảm trước các mối tương quan lực lượng. Nước Pháp phải tránh để không bị rơi vào cái bẫy được giăng ra khi muốn Pari giữ vai trò “điện báo viên nhỏ” giữa Mỹ và Nga – một cách xử sự không mang lại lợi lộc gì cho Pháp cả. 

2/ Cần phải “ngừng điệu múa bụng trước một đường ống dẫn khí đốt của Nga”. Nói cách khác, châu Âu và Mỹ không được thỏa hiệp với những giá trị của mình – dân chủ, Nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự, quyền tự do báo chí, nhân phẩm, tôn trọng cá nhân – mà các nhà lãnh đạo Nga hiện nay đang phủ nhận hoàn toàn hoặc bóp méo nó. Trên nền những sự bấp bênh về địa chính trị, trong một thế giới mà ở đó vai trò lãnh đạo đang bị tranh cãi gay gắt, phương Tây cần phải trở lại những nền tảng cơ bản của mình để đảm nhiệm sứ mệnh tái thiết tương lai. 

3/ Dựa vào các cơ sở không thể thương lượng được này, cần phải tiến hành một cuộc đối thoại thẳng thắn với Nga mà không ảo tưởng về bản chất của chế độ. Trước một chính quyền không do dự trong việc tiến tới gây ra xung đột, phương Tây phải lập ra một ranh giới đỏ không được vượt qua. Cần phải nói rõ với Nga rằng việc ủng hộ nền dân chủ không có nghĩa là chống Nga, rằng xu hướng thân phương Tây không tương phản với việc bảo vệ những lợi ích của Nga về lâu dài. Bởi vì dân chủ là điều kiện tiên quyết cho mọi sự phát triển. 

4/ Cuối cùng, cần phải tin tưởng vào nước Nga trong tương lai, khuyến khích và đào tạo một ban lãnh đạo cởi mở về tinh thần, năng động, tán thành “quyền lực mềm”. Cũng như ở khắp nơi, thế hệ 2000 sẵn sàng nắm lấy những đòn bẩy lãnh đạo. Có trí tuệ phù hợp với những biến đổi khôn lường của tình hình quốc tế mới, thế hệ mới này nằm trong cách nhìn toàn cầu của nước Nga – đó là điều đuy nhất có thể xóa bỏ mọi ngăn cách với nước Nga và trả lại cho nước Nga vị trí mà nước này xứng đáng được hưởng.

Theo Trang mạng “Người Nga”