Mấy tháng nay những việc rắc rối xảy ra ở xung quanh Trung Quốc không ít, quan hệ của một số nước láng giềng với Trung Quốc liên tục trắc trở, đặc biệt là khu vực từ Hoàng Hải ở Đông Bắc Á đến khu vực giáp biển phía Đông Nam rắc rối lại càng nhiều. Các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ cũng nhân cơ hội lên tiếng “can dự”, đục nước béo cò lại càng làm tăng tính chất phức tạp của vấn đề. Việc nhận thức thế nào về môi trường chiến lược xung quanh Trung Quốc hiện nay và cần có trước những phương hướng, sách lược đối phó như thế nào, vấn đề này đã trở thành tiêu điểm chú ý rộng rãi của dư luận.

 
Đánh giá thế nào về môi trường chiến lược xung quanh?


Khi đánh giá môi trường an ninh xung quanh Trung Quốc, mọi người cần nhất là có được câu trả lời ngắn gọn rõ ràng, có nghĩa cuối cùng là “tốt” hay là “xấu”, nhưng khi đi sâu phân tích cụ thể quả thực rất khó có được cách trả lời ngắn gọn mạch lạc bằng một câu đơn giản dễ hiểu.


Hiện nay môi trường chiến lược xung quanh của Trung Quốc quả có mặt nghiêm trọng, một số đài báo và nhà quan sát thậm chí còn tô vẽ thành cảnh tượng “nghiêm trọng, phức tạp chưa từng có”, hoặc đã đi vào giai đoạn nhiễu nhương có nhiều biến cố, và đang đứng trước khảo nghiệm mới trong việc tạo dựng khu vực xung quanh đáng tin cậy để làm chỗ dựa. Đi vào cụ thể, nếu xét từ góc độ nghiêm trọng thì môi trường chiến lược xung quanh của Trung Quốc hiện nay có 5 đặc điểm lớn như sau:


Thứ nhất, về mặt địa lý thì những phiền phức chiến lược tập trung cao độ ở khu vực phía Đông và vùng giáp biển phía Nam Trung Quốc, bắt đầu từ Đông Bắc Á, lần lượt từ vụ rắc rối liên quan đến sự cố “tàu Cheonan” và vụ tàu sân bay USS George Washington vào khu vực Hoàng Hải diễn tập quân sự chung với Hàn Quốc; về phía Nam có vụ Nhật Bản bắt giữ tàu cá, ngư dân và truởng tàu của Trung Quốc ở vùng biển thuộc đảo Điếu Ngư làm cho quan hệ Trung-Nhật xấu đi; về phía Biển Đông, tranh chấp giữa Philíppin và Việt Nam là các nước thuộc khối ASEAN với Trung Quốc về chủ quyền ở Biển Đông  và một số khu vực có các đảo phụ thuộc theo đó có dấu hiệu nóng lên. Ở phía Tây đi về phía Eo biển Malắcca, vấn đề giữa Trung Quốc và Ấn Độ xung quanh Ấn Độ Dương và vấn đề về lãnh thổ cũng như nguồn nước cũng có lúc xảy ra va chạm. Tình hình rối ren từ khu vực Nam Á trở lên đến vùng Trung Á ở phía Bắc, Cưrơgưxtan và việc Mỹ mở rộng đầu tư cho cuộc chiến ở Ápganixtan, không thể không làm tăng mối lo ngại của Trung Quốc đối với vùng biên giới chiến lược ở phía Tây.


Thứ hai, về thời điểm, những phiền phức chiến lược nói trên phần lớn đều xảy ra sau khi tổng lượng GDP của Trung Quốc vượt Nhật Bản, đứng thứ hai thế giới được Trung Quốc công bố vào quý hai năm nay. Dư luận phương Tây, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản hầu như đều quy lỗi cho phía Trung Quốc theo cách tư duy của họ, đồng thời coi Trung Quốc sau khi trở thành “anh hai” tất yếu sẽ thay đổi theo hướng “ngạo mạn” và dẫn đến hiện tượng “động đất” địa-chính trị. Còn theo báo chí trong nước thì hiện tượng này đã phản ánh chứng bệnh của một số nước xung quanh và một số thế lực trong cộng đồng quốc tế đã không thích ứng kịp với việc Trung Quốc phát triển thành “anh hai” của thế giới.


Thứ ba, xét về mặt tính chất thì những rắc rối nói trên phần lớn liên quan đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước xung quanh, thêm vào đó là một số xung đột lợi ích quan trọng khác, chẳng hạn như các yếu tố thương mại, tài nguyên, uy tín, địa vị… đã xen lẫn vào trong đó, rất dễ dẫn đến những tình cảm kích động từ một số báo chí và tâm trạng bức xúc của dân chúng làm cho bầu không khí quan hệ quốc tế bị đầu độc, khiến cho các bên khó thỏa hiệp hơn, tạo cơ hội cho thế lực bên ngoài can thiệp. Không chỉ có Mỹ đã mở rộng mức độ can thiệp chiến lược vào châu Á, mà cả Ấn Độ và Nhật Bản cũng nhúng tay nhiều hơn vào các lĩnh vực kinh tế và chiến lược ở các nước Đông Nam Á.


Thứ tư, về phương thức diễn biến, mức độ liên quan lẫn nhau giữa các phiền phức chiến lược nói trên tương đối mạnh, dễ sinh ra hiện tượng “cộng hưởng” chiến lược. Chẳng hạn như những phiền phức chiến lược phần lớn đều liên quan đến tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải giữa Trung Quốc và các nước xung quanh, dân số và diện tích đất đai của Trung Quốc ở vào địa vị đàn anh “đặc biệt”, lớn hơn cả dân số và diện tích của các nước này cộng lại, các nước đó phần lớn lại vừa dựa vào Trung Quốc vừa nghi ngờ Trung Quốc, từ đó ở mức độ nhất định cũng dễ tìm đến một điểm chung chiến lược với nhau. Trong bối cảnh nào đó, có khả năng các nước này sẽ hình thành một kiểu “liên kết” chiến lược tạm thời đối phó với Trung Quốc. Ở các nước Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, có một số người đã bàn đến việc thành lập “vành đai các quốc gia dân chủ” ở xung quanh Trung Quốc với dụng ý xấu.


Thứ năm, trong lúc đợt phiền phức chiến lược xung quanh đang nóng lên, Mỹ đã ra sức điều chỉnh lại chiến lược toàn cầu của họ, từ việc rút quân khỏi Irắc, co hẹp chiến lược ở các khu vực khác trên thế giới, cho đến việc mở rộng mức độ can dự chiến lược ở châu Á-Thái Bình Dương, nhất là tuyên bố công khai “trở lại đna”. Đó là một hình thức “cộng hưởng” chiến lược theo một hình thức khác, vừa tạo ra được cơ hội để Mỹ quán triệt chiến lược châu Á-Thái Bình Dương mới của họ, cũng vừa khiến cho một số phiền phức chiến lược nói trên ở xung quanh Trung Quốc phức tạp hơn.


Sự kiện “va chạm tàu” giữa Trung Quốc-Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư trở thành tiêu điểm


Trong đợt phiền phức chiến lược mới ở xung quanh mà Trung Quốc gặp phải thì sự kiện “va chạm tàu” nói trên là tiêu điểm, khiến người ta quan tâm nhiều nhất, cũng mang tính chất chiến lược nhiều nhất, nên biện pháp giải quyết thế nào sẽ có ảnh hưởng hết sức quan trọng đến kết quả cuối cùng.


Về mặt địa lý, đảo Điếu Ngư và khu vực biển Hoa Đông trong đó có đảo Điếu Ngư là nằm giữa Hoàng Hải và Biển Đông, gần đảo Đài Loan có giá trị, là điểm trung tâm nối kết trong chuỗi đảo thứ nhất vùng biển gần Đông Á, cũng là chỗ mong manh nhất, việc được mất đối với đảo này không những liên quan đến lãnh thổ, lãnh hải, lợi ích tài nguyên cũng như uy tín của quốc gia, mà về mặt chiến lược cũng liên quan đến khả năng của Trung Quốc có ra được Thái Bình Dương hay không, vì thế hai nước Trung-Nhật đều coi đó là lợi ích quốc gia cốt lõi của mình.


Dưới góc nhìn về sức mạnh, dân số Nhật Bản chỉ kém Inđônêxia, tổng lượng kinh tế của Nhật Bản lại càng lớn hơn tất cả các nước xung quanh ngoài Trung Quốc cộng lại. Sức mạnh quân sự của Nhật Bản, nhất là hải quân và không quân Nhật Bản cũng mạnh hơn nhiều so với tất cả các nước nói trên. Về chính trị, Nhật Bản một thời đã từng là bá chủ ở Đông Á, ý thức tranh hùng nước lớn đã ăn sâu dai dẳng trong giới chiến lược ở trong nước như hình với bóng, không thể nào xóa đi được.


Về mặt thời gian, bắt đầu từ quý II/2010 ngôi vị nước lớn kinh tế thứ hai thế giới đã bị Trung Quốc thay thế khiến Nhật Bản có lúc không thích ứng được về mặt chiến lược và tâm lý. Có thể nói, so với bất cứ nước nào khác trên thế giới chứng bệnh khó thích ứng với tốc độ phát triển của Trung Quốc của Nhật Bản hiện nay là nghiêm trọng hơn cả.


Chính trong bối cảnh nói trên, khi Trung Quốc và một số nước ASEAN có sự hiểu lầm nhau xung quanh vấn đề Biển Đông, giữa Trung Quốc và Hàn Quốc hiểu lầm nhau về sự kiện “tàu Cheonan” và giữa Trung Quốc-Mỹ có xảy ra hiện tượng không nhất trí với nhau liên quan đến việc tàu sân bay USS George Washington tham gia diễn tập ở Hoàng Hải, Nhật Bản cho như vậy là có cơ hội để lợi dụng, đã đến lúc có thể thăm dò giới hạn chiến lược của Trung Quốc, từ đó thừa cơ khơi lên sự kiện “va chạm tàu” ở đảo Điếu Ngư, bắt giữ tàu trưởng tàu cá của Trung Quốc, từ chối chủ trương của Trung Quốc và tuyên bố sẽ tiếp tục đưa tàu đến đảo Điếu Ngư và vùng biển gần đó để “tuần tiễu trinh sát” khiến cho phiền phức chiến lược của Trung Quốc ở xung quanh tăng thêm một đám “mây mù”.


Đồng thời về mặt ngoại giao, Nhật Bản tích cực gia tăng hợp tác thương mại và chiến lược với các nước quan trọng ở châu Á-Thái Bình Dương như Việt Nam, Ấn Độ, ra sức lôi kéo ASEAN và Mỹ “can thiệp” tranh chấp ở đảo Điếu Ngư. Về mặt quân sự, Nhật Bản đẩy nhanh tốc độ dịch chuyển trọng tâm chiến lược về phía Nam, coi Trung Quốc là nước đối tượng chủ yếu phải nhằm đến, đặc biệt là tăng cường sức mạnh tàu ngầm nhằm vào Trung Quốc, có kế hoạch trong 5 năm tới đây mỗi năm sẽ mua thêm một tàu ngầm cỡ lớn để nâng cao ưu thế hải quân và không quân, xây dựng thành một “con đê chắn sóng” và “bức tường phía Nam” đề phòng hải quân Trung Quốc.


Tuy thế, một số người ở Nhật Bản rõ ràng đã làm sai phép tính. Nhật Bản hiện nay đã liên tiếp để mất đi “hai yếu tố 10 năm”, không tiếp tục được hưởng ưu thế về kinh tế, chiến lược và tâm lý đối với Trung Quốc và các nước láng giềng châu Á của họ sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc hiện nay đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất và là đối tượng xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản. Nhật Bản không những cần nguyên vật liệu của Trung Quốc mà cũng phải cần thị trường lớn và nguồn khách du lịch lớn đến từ Trung Quốc để chấn hưng nền kinh tế của họ. Tại Trung Quốc hiện nay có hơn 10 nghìn doanh nghiệp Nhật Bản, số doanh nghiệp Nhật Bản phải dựa vào thị trường Trung Quốc cũng đã lên đến hơn 100 nghìn. Sau khi xảy ra sự kiện “va chạm tàu” ở đảo Điếu Ngư, Nhật Bản không những không được “cả nước nhất trí” mà thậm chí không có được tiếng nói chung của các nước ASEAN. Nếu cứ quyết tâm đưa vấn đề về đảo Điếu Ngư vào tuyên bố của Hội nghị cấp cao ASEAN thì Nhật Bản sẽ bị các nước ASEAN từ chối.


Đối với Trung Quốc, sự kiện “va chạm tàu” ở đảo Điếu Ngư đã làm tăng thêm phiền phức ngoại giao của Trung Quốc ở xung quanh, buộc Trung Quốc phải có phản ứng chiến lược cần thiết. Trong vụ “va chạm tàu” ở đảo Điếu Ngư, Trung Quốc phải đối đầu với Nhật Bản, tranh biện lý lẽ chứng cứ, có lý, có tình, có trình tự, không thể lấy lớn nạt bé, cậy mạnh nạt yếu.


Mỹ lên tiếng “can dự” khiến vấn đề xung quanh phức tạp


Trong nhiều phiền phức chiến lược xảy ra xung quanh Trung Quốc thời gian gần đây, hầu như mỗi vụ phiền phức đều thấy rõ ảnh hưởng chiến lược của Mỹ. Việc Mỹ gây áp lực đòi Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ tại Hội nghị bộ trưởng Tài chính G.20, chỉ trích Trung Quốc điều chỉnh chính sách xuất khẩu đất hiếm, liên tục điều tra nhằm chống bán phá giá các sản phẩm của Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ…, tất cả những diễn biến đó đều khiến dư luận quan tâm. Nhưng yếu tố mới nhất kiến dư luận quan tâm hơn cả là việc Chính phủ Mỹ cho thấy rõ thái độ muốn “trở lại châu Á”, tích cực can thiệp trong những tranh chấp xảy ra gần đây giữa Trung Quốc với một số nước xung quanh.


Đầu tháng 11 Tổng thống Mỹ B. Obama đã tiến hành chuyến thăm 10 ngày tới bốn nước Ấn Độ, Inđônêxia, Hàn Quốc và Nhật Bản; Sau đó không lâu Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton cũng đi thăm Việt Nam, Campuchia, Malaixia…, tất cả bảy nước trong hai tuần. Học giả Mỹ nghiên cứu về vấn đề địa-chính trị Robert S. Kaplan bình luận rằng nếu nối vị trí của bốn nước mà Obama đi thăm trên bản đồ lại với nhau “sẽ thấy đường nối liền đó đã xuyên qua Ấn Độ Dương, Biển Đông và Biển Hoa Đông, tạo thành một nửa vành đai bao vây Trung Quốc”. Theo lôgíc này thì bảy nước mà bà Clinton đi thăm hiển nhiên là sự bổ sung chiến lược đối với vành đai bao vây Trung Quốc.


Sự thực, Mỹ cũng tích cực điều chỉnh bố trí tuyến mặt trận tiền duyên ở châu Á-Thái Bình Dương, mà điều đặc biệt quan trọng là Mỹ bắt đầu đầu tư lớn, xây dựng đảo Guam thành một căn cứ quân sự cỡ lớn, lúc đó lực lượng quân đội Mỹ tại đây có thể lên đến mấy vạn người.


Sau khi tham gia Hội nghị cấp cao Đông Á, Ngoại trưởng Mỹ “trở lại”, tuyên bố “Mỹ tiếp tục phát huy vai trò tích cực ở châu Á, chúng tôi thực sự rất phấn khởi”.
Trong bối cảnh như vậy, Mỹ liên tục “can dự” trong những phiền phức chiến lược giữa Trung Quốc và một số nước ở xung quanh, thậm chí còn công khai gây rắc rối trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước đó.


Thứ nhất là trong vấn đề Biển Đông, Mỹ công khai gây khó khăn cho quan hệ giữa Trung Quốc với các nước ASEAN. Ngoại trưởng H. Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng R. Gates của Mỹ đều đã nhiều lần tuyên bố vấn đề Biển Đông liên quan đến “lợi ích quốc gia của Mỹ”, chủ trương giải quyết “trên cơ sở đa phương”, đồng thời tỏ ý Mỹ sẵn sàng “làm hết sức mình” để giải tỏa xung đột. Đại sứ Mỹ tại Philípppin Harry Thomas thậm chí còn đề xuất rằng Mỹ “sẵn sàng giúp” soạn thảo một bộ “quy tắc ứng xử” có sức ràng buộc liên quan vấn đề Biển Đông.


Thứ hai, sau khi xảy ra sự kiện “va chạm tàu” giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư, quan chức Mỹ công khai tỏ thái độ, tuyên bố đảo Điếu Ngư là thuộc đối tượng áp dụng theo Điều 5 trong “Hiệp ước bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ”, nhấn mạnh vai trò của “người trong cuộc” theo cách tự biên tự diễn. Trong cách ứng xử cụ thể, Mỹ và Nhật Bản đã tăng cường thương thảo chiến lược, thậm chí còn có kế hoạch cùng với Nhật Bản tổ chức diễn tập quân sự quy mô lớn với nội dung “chiếm lại đảo Điếu Ngư”. Ngoại trưởng Hillary Clinton lại càng công khai đề xuất tổ chức hội nghị ba bên Trung-Mỹ-Nhật để thảo luận vấn đề quan hệ Trung-Nhật.


Thứ ba, lấy lý do sự cố “tàu Cheonan”, Mỹ nhiều lần diễn đi diễn lại khả năng tàu sân bay USS George Washington vào Hoàng Hải tham gia diễn tập chung với Hàn Quốc, trong thời Chiến tranh Lạnh thì tình huống này có thể được xếp vào phạm trù chiến tranh tâm lý và răn đe chiến lược.


Thứ tư, nâng cao mức độ ủng hộ đối với Ấn Độ, mở rộng phạm vi bán vũ khí và trang thiết bị quân sự cho Ấn Độ, nhiều lần diễn tập quân sự chung với Ấn Độ, tăng cường hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật với Ấn Độ để dựa vào nước này kiềm chế Trung Quốc.

 
Ngoài ra, Mỹ còn tích cực đẩy mạnh quan hệ với các nước như Việt Nam, Mông Cổ…, công khai yêu cầu Campuchia không được “lệ thuộc” quá nhiều vào Trung Quốc, đồng thời còn bàn cả đến công trình xây dựng của Trung Quốc ở thượng nguồn sông Mê Công. Mỹ cũng không ngừng lên tiếng can thiệp trong cuộc bầu cử ở Mianma.


Tuy nhiên, trước việc Mỹ lớn tiếng “xen vào” những phiền phức chiến lược ở xung quanh Trung Quốc, “trở lại” Đông Nam Á, Trung Quốc cũng phải quan sát và phân tích một cách bình tĩnh. Về ý đồ chiến lược và khả năng chiến lược thì việc Mỹ “trở lại” lần này có những khác biệt rất lớn so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đặc biệt là trong những năm 50, 60 thế kỷ trước. Trong các thời kỳ đó, việc Mỹ bị cuốn vào Đông Nam Á là muốn công khai ngăn chặn Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa, còn nay là muốn duy trì “ánh chiều tà của đế quốc”, là cảnh tượng của một “cuộc chiến hậu vệ” để duy trì chứ không phải mở rộng ảnh hưởng, có ý đồ ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy nhưng sẽ không bao giờ còn mạnh như trước đây. Xét về khả năng thì Mỹ đã không thể kiểm soát được Đông Nam Á và các nước Nhật Bản, Hàn Quốc ở xung quanh Trung Quốc một cách toàn diện như trước đây, thực lực của bản thân nước Mỹ cũng đang suy giảm.
Kiên trì ngoại giao “láng giềng thân thiện”, tạo dựng khu vực tin cậy ở xung quanh


Có một yếu tố lợi hại như một diệu kế về mặt chiến lược là biết mình biết người. Biết người ở đây là phải biết rõ ý đồ và khả năng của đối thủ, nghĩa là biết đối thủ muốn làm gì và khả năng làm được đến đâu? Về cái gọi là biết mình, trước hết phải làm rõ được của cải, hành trang của mình có những gì, có thể làm được gì, có những mặt mạnh như thế nào? Đặc biệt phải làm rõ cho được mình có những hạn chế gì? Một diệu kế khác về mặt chiến lược là phải có sẵn ý thức về những mối đe dọa chủ yếu, có mục tiêu rõ ràng, phân rõ chính phụ, lựa chọn chính xác đột phá khẩu, tập trung lực lượng vào những hướng quyết định, hết sức kiêng, tránh mục tiêu quá lớn, quá rộng, dàn lực lượng một cách quân bình, lập thành chiến tuyến ở bất cứ đâu.


Nói về kết cấu an ninh xung quanh Trung Quốc thì Trung Quốc ở vào địa vị “một lớn đối với nhiều nhỏ”, nước Mỹ là sức mạnh siêu cường ở bên ngoài, can thiệp bằng thế mạnh, đây là sự thực tồn tại khách quan. Dù là Mỹ hay các nước xung quanh thì đối với Trung Quốc cũng vừa có mặt hợp tác, dựa vào nhau, lại vừa có mặt lo ngại, đề phòng. Đây là lôgic hiện thực khiến tình hình vốn phải như vậy, cũng là một cách tồn tại khách quan. Dù Trung Quốc có chân thành thể hiện chính sách “láng giềng thân thiện” đến đâu thì hai mặt nói trên cũng đều tồn tại lâu dài, chỉ có điều là tỉ trọng giữa hai mặt có phần khác nhau.


Nói tóm lại, tình hình an ninh ở xung quanh Trung Quốc phải tránh tuyệt đối, không được để cho 3 tình thế như dưới đây xuất hiện:


Thứ nhất, khi có hai nước láng giềng trở lên mà để cho mâu thuẫn của những nước này với Trung Quốc đồng thời nổi lên thì mặt nghi ngờ và đề phòng của những nước này sẽ lớn hơn mặt hợp tác và dựa lẫn nhau đối với Trung Quốc, như vậy các nước đó sẽ kết thành thế trận đối đầu với Trung Quốc.


Thứ hai, để cho mâu thuẫn của Mỹ với Trung Quốc tăng lên, mặt nghi ngờ và đề phòng của Mỹ đối với Trung Quốc lấn át mặt hợp tác và lệ thuộc lẫn nhau với Trung Quốc.


Thứ ba, có nhiều hơn một nước láng giềng của Trung Quốc mà để cho mặt xung đột của Mỹ và những nước này đối với Trung Quốc đồng thời tăng lên, như vậy sẽ tạo thành thế trận liên hợp mang tính chiến lược mà Trung Quốc phải đối mặt.


Hiện nay, tình trạng phiền phức chiến lược ở xung quanh Trung Quốc mặc dù không ít, tình hình phức tạp nhưng ba tình huống nói trên đều chưa xuất hiện. Trong quan hệ của Trung Quốc với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ hay với các nước Đông Nam Á, tuy có không ít phiền phức nhưng về tổng thể thì cơ sở quan hệ vẫn tích cực và ổn định. Trong khi các nước này vẫn có tâm lý lo lắng, đề phòng Trung Quốc phát triển nhưng xu thế chủ yếu hơn vẫn là tìm kiếm và tăng cường hợp tác với Trung Quốc. Quan hệ Trung Quốc và Mỹ hiện nay đại thể cũng như vậy.


Nếu xem xét một cách toàn diện thì môi trường chiến lược xung quanh Trung Quốc hiện nay vẫn chưa thể nào phức tạp bằng tình hình nghiêm trọng nhất khi mới thành lập nước, ví dụ so với thời điểm năm 1950 khi Mỹ xâm lược Triều Tiên và quân Pháp áp sát biên giới Trung-Việt, thì rõ ràng tình hình hiện nay còn tốt hơn nhiều. Hoặc nếu so với thời điểm trước và sau khi xảy ra chiến tranh biên giới với Ấn Độ năm 1962, hay so với thời điểm trước và sau trận chiến ở đảo Trân Bảo (Damansky) với Liên Xô năm 1969 thì tình hình hiện nay cũng sáng sủa hơn nhiều.


Tuy nhiên, tình hình an ninh là ở trong trạng thái động, quan hệ giữa Trung Quốc với Mỹ và các nước xung quanh như thế nào sẽ tùy thuộc vào tình hình thay đổi trong tương quan so sánh lực lượng, phụ thuộc vào nhận thức về lợi ích và phương pháp lựa chọn chính sách. Tình hình xung quanh Trung Quốc hiện nay chưa xuất hiện ba tình huống an ninh nói trên không có nghĩa là từ nay về sau sẽ không xuất hiện. Có học giả cho rằng sau khi tổng lượng kinh tế của Trung Quốc đứng vị trí thứ hai, tất yếu sẽ ở trong trạng thái “cây to hứng gió”, vì thế nên so với 5 năm, 10 năm về trước, hoặc thậm chí so với cả 20 năm từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, thì khả năng môi trường xung quanh Trung Quốc hiện nay trượt theo ba tình huống nói trên sẽ đều lớn hơn, nhưng không hẳn nhất định sẽ xảy ra.


Đứng trước môi trường chiến lược xung quanh phức tạp và những phiền phức chiến lược đang hiển hiện, trước hết Trung Quốc phải xác lập một trạng thái tâm lý chiến lược bằng lý trí sáng suốt và tích cực, đó chính là cơ sở tâm lý cần phải có trong quyết sách chiến lược. Một mặt phải nghiêm túc chú trọng môi trường an ninh phức tạp và những đe dọa chiến lược tiềm tàng ở xung quanh hiện nay, nhất là khả năng xuất hiện ba tình thế chiến lược nói trên, mặt khác báo chí và các học giả không nên tuyên truyền, tô vẽ quá mức nghiêm trọng đối với nhiều kiểu phiền phức chiến lược như hiện nay và cũng không nên hoảng sợ. Đồng chí Đặng Tiểu Bình trước đây đã đưa ra ý tưởng “lặng lẽ quan sát, bình tĩnh đối phó, giấu mình chờ thời”, vừa là triết học ngoại giao cũng vừa là một trạng thái tâm lý chiến lược, vẫn còn nguyên ý nghĩa chỉ đạo đối với môi trường chiến lược phức tạp hiện nay.


Xem xét một cách cụ thể đối với chiến lược an ninh láng giềng, nếu xét theo phương diện tích cực thì đúng như các đồng chí lãnh đạo trung ương đã nói, Trung Quốc vẫn phải tiếp tục thúc đẩy chính sách ngoại giao “láng giềng thân thiện”. Phải ra sức xây dựng khu vực xung quanh ổn định, hài hòa để làm chỗ dựa, cố gắng làm triệt tiêu xung đột. Nếu quản lý chặt chẽ, kiểm soát được mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Mỹ, khiến cho mặt hợp tác, dựa vào nhau trong quan hệ Trung-Mỹ lớn mạnh hơn mặt xung đột thì Trung Quốc sẽ có được vũ đài hoạt động nhiều hơn, có nhiều khả năng tranh thủ được môi trường hòa bình lâu dài hơn để hoàn thành sự nghiệp phát triển./.

 

Nguồn: Báo “Quốc phòng Trung Quốc”; TTXVN