Ngay trước thềm Hội nghị Trung ương 5 khóa 17, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc một lần nữa nhắc đến việc phải tăng cường “ý thức về thời cơ” và “ý thức về hoạn nạn”. Trong một bài viết đăng trên tờ Liên hợp Buổi sáng của Xinhgapo ngày 5/10, Giáo sư Trịnh Vĩnh Niên thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á, Đại học Quốc gia Xinhgapo cho rằng hai loại “ý thức” này có ý nghĩa rất rộng và nếu đặt trong bối cảnh ngoại giao Trung Quốc đang có những thay đổi lớn, việc tăng cường chúng càng trở nên bức thiết. 


Theo Giáo sư Trịnh Vĩnh Niên, có nhiều dấu hiệu cho thấy ngoại giao Trung Quốc đang đứng trước những thay đổi lớn chưa từng có trong lịch sử. Trong lĩnh vực kinh tế, mới đây Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới về tổng lượng GDP. Vì GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn rất thấp, nên người Trung Quốc không cho rằng sự thay đổi này đem lại cho họ những ảnh hưởng cụ thể nào. Nhưng ở nước ngoài, việc Trung Quốc vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có ý nghĩa rất lớn. Cộng thêm việc Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong điều kiện cải cách mở cửa và Trung Quốc bây giờ là một bộ phận nội tại của kinh tế thế giới, Trung Quốc rõ ràng đã trở thành động lực chính thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế. Đáng chú ý là khi các nước phát triển tăng cường chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch biến tướng dưới nhiều hình thức, với tư cách một nước đang phát triển, Trung Quốc lại dốc sức thúc đẩy chủ nghĩa tự do mậu dịch. 


Ảnh hưởng bên ngoài của kinh tế Trung Quốc được phản ánh trong lĩnh vực phân chia quyền lực thế giới. Sau khi Trung Quốc bước vào hệ thống thế giới, sự ổn định của hệ thống này từng bước được nâng lên. Cho dù nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, gồm Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đều do phương Tây thành lập, nhưng vai trò của Trung Quốc trong những tổ chức này lại tăng lên nhanh chóng. Ở một mức độ lớn, điều này có nghĩa (chí ít là trong lĩnh vực kinh tế) Trung Quốc bắt đầu cùng các nước lớn khác “điều hành” trật tự kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, Trung Quốc sớm là Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và đóng vai trò ngày một quan trọng, nên vai trò của Trung Quốc trong trật tự kinh tế thế giới càng có ý nghĩa thực chất hơn. Nhưng vấn đề đáng phải suy nghĩ là việc Trung Quốc bắt đầu có khả năng “điều hành” trật tự kinh tế thế giới đã đem lại cho nước này thời cơ gì? 


Mặt khác, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với cục diện ngoại giao rất khó khăn và điều đó được biểu hiện trên các phương diện. Về kinh tế, nền kinh tế lấy xuất khẩu làm chủ đạo của Trung Quốc bị quy trách nhiệm là đã gây ra sự mất cân bằng của kinh tế toàn cầu. Dưới quan điểm này, Mỹ (và phương Tây) ngày càng gia tăng áp lực đối với Trung Quốc trong vấn đề tỉ giá đồng nhân dân tệ. Bên cạnh đó, sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc bị cho là đã gây ra sức ép cạnh tranh tài nguyên đối với các nước khác. Vấn đề khí hậu và bảo vệ môi trường vốn có quan hệ mật thiết với sự phát triển của kinh tế cũng trở thành một mắt xích quan trọng của ngoại giao Trung Quốc. Điển hình hơn là về mặt chiến lược, những nhân tố không xác định lớn mà Trung Quốc phải đối mặt không chỉ biểu hiện trong quan hệ nước lớn, mà còn biểu hiện trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh. 


Từ đầu năm 2010 tới nay, quan hệ Trung-Mỹ, Trung-Hàn, Trung-Nhật, Trung Quốc-ASEAN đều có những sự thay đổi lớn. Trong những mối quan hệ trên, phương thức tác động qua lại giữa các nước như Mỹ và Trung Quốc khiến người ta lo lắng. Mỹ hiện nay là nước lớn quân sự mạnh nhất thế giới. Do sức mạnh kinh tế bắt đầu cho thấy tình trạng lực bất tòng tâm, nên Mỹ càng có xu hướng chú trọng tới sức mạnh quân sự và các biện pháp quân sự. Mỹ liên tục phối hợp với các nước xung quanh Trung Quốc tổ chức diễn tập quân sự ở vùng biển gần Trung Quốc. Trong khi đó, Trung Quốc cũng không cam tâm yếu thế. Những tiếng nói cứng rắn về quân sự của hai nước dường như đã lớn hơn những tiếng nói về ngoại giao. 


Sự lựa chọn của Trung Quốc quyết định cục diện tương lai của thế giới 

 

Rõ ràng, Trung Quốc đang đứng trước “thời cơ”, nhưng cũng phải đối mặt với “hoạn nạn”. Trong khi đó, “thời cơ” và “hoạn nạn” vốn là hai lực lượng mâu thuẫn nhau. Con người có thể lợi dụng “thời cơ” để khắc phục “hoạn nạn”, nhưng cũng có thể vì phòng ngừa “hoạn nạn” mà bỏ lỡ “thời cơ”. Nắm chắc “thời cơ”, “hoạn nạn” sẽ không trở thành “hoạn nạn”, phòng ngừa “hoạn nạn” một cách đơn thuần, “hoạn nạn” sẽ càng lộ rõ và càng trở nên nghiêm trọng. Vì thế, vấn đề cần giải quyết ở đây là “lựa chọn như thế nào?”, tức là phải “nắm chắc thời cơ ra sao?” và “phòng ngừa hoạn nạn” ra sao?”. Trên thực tế, sự lựa chọn của Trung Quốc không chỉ sẽ quyết định tương lai của bản thân Trung Quốc, mà còn quyết định tương lai của cục diện quyền lực thế giới. 


Sự lựa chọn hiện nay của Trung Quốc quyết định tương lai, điều này được chứng minh bằng thực tế từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa. Vào cuối những năm 1970, cho dù thế giới vẫn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, nhưng Đặng Tiểu Bình đã nhạy cảm thấy được cơ hội của Trung Quốc, quả quyết lựa chọn chính sách “cải cách mở cửa”. Sự lựa chọn này của Trung Quốc vừa thay đổi được bản thân Trung Quốc, vừa làm thay đổi thế giới sau này. Khi đó, Trung Quốc trong tình trạng nghèo khó, muốn phát triển phải có một môi trường quốc tế hòa bình. Nhưng môi trường quốc tế hòa bình không phải là từ trên trời rơi xuống mà do Trung Quốc tranh thủ được. Vì nó, Trung Quốc đã từ bỏ chính sách đóng cửa trước đây, mở cửa đất nước, cải cách bản thân, hội nhập với thế giới. Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã trở thành một bộ phận trong hệ thống thế giới. Nếu không có sự lựa chọn mang tính lý tính của Đặng Tiểu Bình khi đó, rất khó tưởng tượng ra được vị trí của Trung Quốc ngày nay trong cộng đồng quốc tế. 


Sự lựa chọn của Trung Quốc cũng làm thế giới thay đổi. Trực tiếp nhất là việc sự lựa chọn này đã tạo ra sức ép rất lớn đối với phe Đông Âu khi đó do Liên Xô đứng đầu và dẫn đến những biến động lớn sau này. Có người nói, việc thực hiện cải cách mở cửa của Trung Quốc đã quyết định sự sụp đổ của Bức tường Béclin sau này. Điều đó không phải không có lý. 


Ngày nay, Trung Quốc đang đối mặt với tình hình quốc tế và sự phân chia quyền lực mới, tức là Trung Quốc lại phải lựa chọn. Nhưng sự lựa chọn của Trung Quốc không phải là tự do lựa chọn mà phụ thuộc vào cục diện quyền lực quốc tế. Một sự lựa chọn mang tính lý tính phụ thuộc vào việc Trung Quốc có thể nhận thức một cách chính xác vị trí của mình trong cục diện quyền lực quốc tế hay không. 


Xem xét các nhân tố kết cấu, Trung Quốc hiện nay đang đứng trước kết cấu G2 trong thực tế, nghĩa là Trung Quốc và Mỹ cùng ở trong một kết cấu quốc tế và hai nước nằm ở đỉnh chóp của kết cấu này. Cho nên, sự tác động qua lại giữa Mỹ và Trung Quốc là rất quan trọng vì hành vi của bên này sẽ ảnh hưởng đến bên kia. 


Mỹ là người đã giành được lợi ích trong hệ thống này, trong khi Trung Quốc là người đến sau. Hành vi của Mỹ ảnh hưởng sâu sắc đến Trung Quốc. Nhưng việc Trung Quốc phản ứng ra sao đối với hành vi của Mỹ lại quyết định việc Mỹ sẽ có hành vi như thế nào trong tương lai. 


Một đặc điểm nổi bật là việc Mỹ ngày càng bộc lộ rõ sức mạnh quân sự của mình trên vũ đài chính trị quốc tế. Từ thời kỳ Chiến tranh Lạnh tới nay, trong một thời gian dài, sức mạnh chính trị, quân sự và kinh tế của Mỹ ở trong thể hợp nhất và không nước nào có thể so sánh được với Mỹ về ba sức mạnh đó. Ưu thế hợp nhất ba sức mạnh trên của Mỹ đạt tới đỉnh cao vào thời hậu Chiến tranh Lạnh. Nhưng ngày vui không dài. Mỹ lạm dụng quyền lực, muốn sử dụng dân chủ chính trị và chủ nghĩa tự do kinh tế để “kết luận” lịch sử thế giới. Nhưng kết quả Mỹ liên tục gặp trở ngại trong việc thúc đẩy dân chủ và chủ nghĩa tự do mới không có sự ràng buộc về kinh tế càng làm sâu sắc thêm khủng hoảng kinh tế trong lòng nước Mỹ. Có thể thấy rằng trước khi khôi phục toàn diện được niềm tin về kinh tế và chính trị, sức mạnh quân sự của Mỹ rất dễ bước lên đứng trước ngoại giao và quan hệ quốc tế. Trong một số hoàn cảnh, sử dụng sức mạnh quân sự thậm chí sẽ trở thành việc không thể tránh được đối với Mỹ. 
Phụ thuộc lẫn nhau vào kinh tế không phải là sự bảo đảm cho hòa bình 

 

Trong tình hình nêu trên, việc Trung Quốc phản ứng như thế nào trở thành vấn đề cốt lõi. Nếu giống Liên Xô, Trung Quốc sẽ lại sử dụng sức mạnh quân sự để chống trả, nhưng điều đó có thể sẽ lại khiến hệ thống thế giới chia thành hai phần. Phương thức “ăn miếng trả miếng” là lô gíc của cái gọi là “chủ nghĩa hiện thực” thịnh thành nhiều năm ở phương Tây. Có người cho rằng do kinh tế của Trung Quốc và Mỹ đã đạt tới mức độ phụ thuộc vào nhau tương đối cao, nên khó có viễn cảnh trật tự thế giới bị chia làm hai phần. Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau chỉ làm tăng cái giá mà Mỹ và Trung Quốc phải trả khi rút ra khỏi hệ thống này. 


Tình hình trước Chiến tranh Thế giới thứ Nhất cũng như vậy. Khi đó, trao đổi kinh tế, mậu dịch giữa các nước châu Âu rất nhộn nhịp và đã hình thành một làn sóng toàn cầu hóa thời kỳ đầu. Một số người cho rằng sẽ không có bất cứ nước nào bỏ qua lợi ích kinh tế to lớn để phát động chiến tranh với nước khác. Xuất phát từ suy nghĩ đó, họ dự đoán rằng châu Âu sẽ hưởng hòa bình và phát triển vĩnh viễn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế rốt cuộc cũng không ngăn được chiến tranh giữa các nước châu Âu (sau này, xã hội phương Tây vẫn luôn tìm kiếm cơ chế có thể ngăn chặn sự bùng phát chiến tranh giữa các nước, gồm cả học thuyết cân bằng quyền lực, lý luận bá quyền và chính thể dân chủ…). 

 

Trung Quốc có sẽ đi theo lôgíc quân sự của đế quốc phương Tây hay không? Đứng trước sức ép lớn từ bên ngoài, Trung Quốc đương nhiên có thể đi theo lôgíc đó, cũng tất yếu phải đẩy nhanh việc hiện đại hóa quân sự nhằm tăng cường quốc phòng. Không một quốc gia nào ôm ấp mộng tưởng rằng lợi ích quốc gia vẫn có thể được bảo vệ một cách hữu hiệu dù không có sức mạnh quân sự. Đồng thời, do nền kinh tế Trung Quốc phát triển theo mô hình hướng ngoại, nên cho dù là xuất nhập khẩu hay đầu tư, tính tương quan giữa kinh tế Trung Quốc và nền kinh tế thế giới sẽ tiếp tục được tăng cường, buộc Trung Quốc phải phát triển sức mạnh quân sự để bảo vệ an toàn tuyến hàng hải trên biển của mình. Trên thực tế, việc bảo vệ an toàn tuyến hàng hải trên biển không chỉ là mối quan tâm của Mỹ và các nước lớn khác, mà còn là mối quan tâm của Trung Quốc. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, nên rất khó có thể tưởng tượng rằng nếu không có sức mạnh trên biển mạnh, Trung Quốc có thể bảo đảm tính liên tục trong phát triển nền kinh tế hướng ngoại của mình. Quan trọng không kém là vai trò kinh tế của Trung Quốc cũng yêu cầu nước này phải có khả năng để thực hiện những việc đó nhằm duy trì trật tự thế giới. Điều này cũng có nghĩa Trung Quốc phải phát triển năng lực gánh vác và thực thi trách nhiệm quốc tế của mình. Về phương diện này, Trung Quốc (giống như một số học giả Mỹ vẫn nhấn mạnh) luôn là “kẻ bỏ ra ít hưởng lợi nhiều”. Cho dù là nhu cầu an ninh kinh tế tự thân hay thực thi trách nhiệm quốc tế, bản thân Trung Quốc cũng cần phải có đầy đủ năng lực, tình trạng “bỏ ra ít hưởng lợi nhiều” không thể tiếp tục được. 


Nhưng điều đó không có nghĩa Trung Quốc phải trở thành một đế quốc khác kiểu phương Tây. Trung Quốc có thể đưa ra lựa chọn của mình. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy Trung Quốc càng có thể lựa chọn việc tiếp tục con đường hiện đại hóa kinh tế hiện nay, nghĩa là Trung Quốc tiếp tục là một nước lớn về kinh tế, trong khi việc hiện đại hóa quân sự tiếp tục nằm ở vị trí thứ yếu, chỉ phục vụ cho những nhu cầu nêu trên: phòng vệ, bảo vệ an ninh kinh tế và thực thi trách nhiệm quốc tế. 


Từ thời cận đại tới nay, đây là lần đầu tiên Trung Quốc phát huy ảnh hưởng ngoại giao mang tính thực chất. Cho dù các loại nhân tố chế độ nội bộ tiếp tục hạn chế ảnh hưởng ngoại giao của Trung Quốc, nhưng thế giới bên ngoài đã cảm nhận được sức ảnh hưởng ngoại giao ngày một lớn của Trung Quốc. Rõ ràng sức ảnh hưởng này chủ yếu đến từ tính tương quan giữa sự phát triển kinh tế của Trung Quốc với kinh tế thế giới mà không phải là đến từ việc hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc. Cuộc đấu với Nhật Bản trong vấn đề va chạm tàu ở đảo Điếu Ngư đã cho thấy một cách đầy đủ về sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Trước đây, người ta thường thấy các nước phương Tây áp dụng biện pháp chế tài đối với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc hiện nay đã có khả năng này. Việc các nước phương Tây quan tâm sâu sắc đến xuất khẩu thương mại của Trung Quốc và sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ cũng là sự phản ánh năng lực kinh tế của Trung Quốc. Năng lực kinh tế của Trung Quốc tất nhiên sẽ tiếp tục được tăng cường cùng với sự phát triển kinh tế của nước này. 


Sự lựa chọn của Trung Quốc 


Từ kinh nghiệm lịch sử, sự lựa chọn mang tính lý tính của Trung Quốc có thể không phải là những lựa chọn liệt kê dưới đây: 


Thứ nhất, Trung Quốc không thể lựa chọn (cho dù là chủ động hay bị động) việc rút khỏi hệ thống quốc tế hiện hành. Ở đây có hai khía cạnh. Một là khi Trung Quốc cảm thấy thế giới bên ngoài quá phức tạp liền quyết định tự mình cô lập, tự mình đóng cửa. Hai là tạo ra một vũ đài quốc tế khác như Liên Xô. Trong thế giới hiện nay, đúng là có một số nước (đặc biệt là các nước bị phương Tây coi là “kẻ địch”) hy vọng Trung Quốc có thể đứng ra đối lập với Mỹ, phương Tây. Chủ nghĩa cô lập rõ ràng là không nên lựa chọn. Đóng cửa sẽ bị tấn công, đây là bài học thảm hại nhất mà lịch sử cận đại đã dạy cho Trung Quốc. Một khi lựa chọn việc thành lập một hệ thống khác, Trung Quốc tất nhiên sẽ phải đối mặt với một hệ thống đối lập có quy mô và sức mạnh mà rõ ràng là Trung Quốc không thể so sánh được. 


Thứ hai, Trung Quốc không thể lựa chọn đi theo con đường quốc gia quân sự như Đức, Nhật Bản và Liên Xô trước đây. Trung Quốc phải tiến hành hiện đại hóa quân sự, nhưng hiện đại hóa quân sự phải được giới hạn ở mức cao nhất trong phạm vi chính sách phòng ngự. Sức mạnh quân sự của một nước có thể được tiếp tục hay không rốt cuộc vẫn phụ thuộc vào thực lực kinh tế. Hiện đại hóa quân sự đơn thuần không đủ để trở thành một nước lớn. Một khi Trung Quốc lựa chọn con đường trở thành quốc gia quân sự, không những kinh tế sẽ không thể tiếp tục duy trì đà tăng trưởng như hiện nay, mà còn tự tạo ra lực lượng đối lập cho mình, tức là những quốc gia, tập đoàn quân sự coi Trung Quốc là mối đe dọa. 


Thứ ba, Trung Quốc không thể lựa chọn con đường của Mỹ, tới chỗ nào cũng bành trướng, hơi một tí là sử dụng sức mạnh quân sự. Thế giới ngày nay có rất nhiều vấn đề, đều là hậu quả của việc sử dụng sức mạnh quân sự của phương Tây mà Mỹ đứng đầu. Đương nhiên, việc sử dụng sức mạnh quân sự cũng gây ra gánh nặng lớn cho Mỹ. Trật tự thế giới Mỹ đang duy trì không thể so sánh được với trật tự thế giới mà Anh có được trong thế kỷ 18, 19. 


Thứ tư, Trung Quốc nên tiếp tục lựa chọn làm nước lớn kinh tế. Lịch sử cho thấy Trung Quốc trở thành nước lớn châu Á là dựa trên sức mạnh kinh tế và sự trỗi dậy về văn hóa trong tương quan với sức mạnh kinh tế. Cũng tương tự, biện pháp mà Trung Quốc sử dụng để duy trì hệ thống quốc tế châu Á khi đó cũng là sức mạnh kinh tế (chế độ triều cống) chứ không phải là sức mạnh quân sự. Ngày nay cũng không phải là ngoại lệ. Sự lựa chọn của Trung Quốc cũng sẽ chế ngự sự phát triển của Mỹ theo hướng quốc gia quân sự. Bởi thực tế tăng cường năng lực kinh tế của Trung Quốc sẽ thúc đẩy Mỹ đi theo con đường này, tức là cạnh tranh về kinh tế. Sự cạnh tranh về kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc rõ ràng là tốt hơn sự cạnh tranh về quân sự. 


Thứ năm, trong quá trình tác động lẫn nhau với các nước khác, Trung Quốc phải lựa chọn để xác lập và bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm quốc tế của mình, không giống như Mỹ đơn giản đổ “trách nhiệm quốc tế” trong giới định của mình lên nước khác. Đương nhiên, Trung Quốc cũng phải phát triển năng lực gánh vác và thực thi trách nhiệm quốc tế của mình. 

 

 


Bất luận như thế nào một Trung Quốc mà mọi người hy vọng nhìn thấy không phải là đế quốc khác theo kiểu phương Tây mà một nước lớn theo một hình mẫu khác. Cùng với sự tiếp tục trỗi dậy về kinh tế và sự quay trở lại của niềm tin văn hóa, Trung Quốc tất phải đưa ra sự lựa chọn này./.

 

 

Nguồn: Liên hợp Buổi sáng; TTXVN