05/03/2014
Vào lúc Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng, đặt toàn bộ Biển Đông dưới quyền khống chế của Bắc Kinh, trên đất liền cũng diễn ra một tình hình đáng ngại khác cho Việt Nam: Trung Quốc càng lúc càng tăng cường thế lực tại Lào và Campuchia
(Đài RFI 27/2)
Vào lúc Trung Quốc ngày càng lộ rõ tham vọng, đặt toàn bộ Biển Đông dưới quyền khống chế của Bắc Kinh, phớt lờ chủ quyền được tuyên bố của Việt Nam đối với hai vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trên đất liền cũng diễn ra một tình hình đáng ngại khác cho Việt Nam: Trung Quốc càng lúc càng tăng cường thế lực tại Lào và Campuchia - hai nước láng giềng cho đến nay là đồng minh truyền thống, nằm trong vòng ảnh hưởng của Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là uy thế ngày càng lớn của Trung Quốc tại Lào và Campuchia, phải chăng đang trở thành một mối đe dọa cho Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh, vì nếu Lào và Campuchia thực sự rơi vào quỹ đạo của Bắc Kinh thì rõ ràng Việt Nam đã lọt vào trong gọng kìm của Trung Quốc.
Phải nói là trong thời gian qua, Trung Quốc đã không ngừng gia tăng các khoản viện trợ và đầu tư vào Lào và Campuchia. Các khoản trợ giúp của Bắc Kinh cho Phnom Penh từng được nói nhiều tới từ cách đây 2 năm, sau khi Campuchia không ngần ngại chiều theo quan điểm của Trung Quốc, và đối kháng với Việt Nam và Philippines trong hồ sơ Biển Đông. Riêng những khoản đầu tư của Trung Quốc vào Lào ít được nói tới dù rất đáng kể.
Cuối 2013, Trung Quốc vượt qua Việt Nam để thành nhà đầu tư số một ở Lào. Ngày 30/1/2014, Đại sứ Trung Quốc tại Lào Quan Hòa Bình cho biết tổng trị giá đầu tư của Trung Quốc tại Lào vào cuối năm 2013 đã đạt mức 5,1 tỷ USD, vượt qua Việt Nam với tư cách là nhà đầu tư lớn nhất tại Lào. Cho đến giữa năm 2013, Việt Nam vẫn còn là nhà đầu tư số một tại Lào với khoảng 5 tỷ USD, theo sau là Thái Lan với 4,8 tỷ USD còn Trung Quốc chỉ đứng thứ ba với 4 tỷ USD. Việc Trung Quốc vượt qua Việt Nam, trong vai trò nhà đầu tư lớn nhất tại Lào, không phải là điều đáng ngạc nhiên trong bối cảnh từ hơn 10 năm nay Bắc Kinh không ngừng nỗ lực dùng lá bài kinh tế để chiêu dụ các nước Đông Nam Á nói chung, và hai nước Lào và Campuchia nói riêng.
Trong một công trình nghiên cứu về quan hệ giữa Trung Quốc với Lào và Campuchia vừa được Viện nghiên cứu thống nhất quốc gia của Hàn Quốc tại Seoul công bố, Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia kỳ cựu về châu Á tại Học viện Quốc phòng Australia đã nêu bật một số lý do chính thúc đẩy Bắc Kinh tăng cường đầu tư cả về kinh tế lẫn chính trị vào hai nước Đông Nam Á này. Ông Carl Thayer cho biết: “Trung Quốc làm như vậy chủ yếu vì lý do kinh tế: Họ tìm cách tiếp cận vào các sản phẩm nông nghiệp và nguồn tài nguyên thiên nhiên rất cần cho nền kinh tế đang phát triển nhanh của họ, đồng thời tìm cách phát triển một thị trường cho hàng hóa và dịch vụ của nước này. Đa phần viện trợ phát triển và đầu tư của Trung Quốc được hướng vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, năng lượng và công nghiệp khai khoáng ở cả Lào lẫn Campuchia”. Mặt khác, theo Giáo sư Thayer, Trung Quốc cũng muốn hội nhập tỉnh Vân Nam vào khu vực Đông Nam Á, do đó đầu tư và viện trợ của Bắc Kinh cũng tập trung vào việc xây dựng mạng lưới giao thông từ miền Nam Trung Quốc tỏa xuống khu vực Đông Nam Á.
Động cơ chính trị: Thông qua Lào và Campuchia để tác động lên ASEAN
Bên cạnh quyền lợi kinh tế, theo giáo sư Thayer, Bắc Kinh cũng có động cơ chính trị. Ông Thayer giải thích: “Trung Quốc tìm cách phát triển mối quan hệ thân thiện với Lào và Campuchia để thu hút sự ủng hộ cho một loạt chính sách quan trọng của Bắc Kinh. Ví dụ, tất cả các thỏa thuận hợp tác song phương dài hạn mà Trung Quốc đã ký kết với các thành viên ASEAN trong những năm 1999-2000 đều có điều khoản liên quan đến chính sách ‘Một nước Trung Quốc’. ASEAN đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Yếu tố đó đã nâng cao tầm quan trọng của Lào và Campuchia trong một khuôn khổ đa phương. Lợi ích của Trung Quốc là làm sao có được quan hệ tốt với Lào và Campuchia (và với tất cả các thành viên ASEAN khác) để họ làm cầu nối cho ảnh hưởng chính trị và kinh tế của Trung Quốc.
Trong năm 2012, khi Campuchia giữ chức Chủ tịch ASEAN, Trung Quốc đã sử dụng ảnh hưởng của mình đối với Chính quyền Phnom Penh để tác động đến cuộc thảo luận về vấn đề Biển Đông trong khối ASEAN. Campuchia đã được khen thưởng vì đã hợp tác. Sắp tới đây, vào năm 2016, Lào sẽ giữ chức Chủ tịch ASEAN”. Theo Giáo sư Thayer, dù rất hữu hảo với Trung Quốc để tranh thủ các quyền lợi về kinh tế, nhưng Lào và Campuchia vẫn cố gắng duy trì quyền độc lập tự chủ của mình. Trong lĩnh vực này, Lào có vẻ thành công hơn Campuchia. Giáo sư Thayer phân tích: “Lào dường như đã thành công hơn Campuchia trong việc duy trì quyền tự chủ của mình nhờ sự hiện diện mạnh mẽ về kinh tế của Thái Lan và Việt Nam … Campuchia thì gặp nhiều khó khăn hơn vì quan hệ với Thái Lan đã bị ảnh hưởng bởi các tranh chấp biên giới, trong lúc bang giao với Việt Nam lại là một vấn đề chính trị gây tranh cãi trong nước. Chính quyền của Đảng Nhân dân Campuchia của ông Hun Sen đã không theo đuổi được một chính sách cân bằng mà đã bị phụ thuộc vào Trung Quốc”.
Ảnh hưởng không ngừng gia tăng của Trung Quốc tại hai nước láng giềng ở phía Tây và Tây Nam phải chăng là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Việt Nam ? Trả lời phỏng vấn của RFI bằng thư điện tử, Giáo sư Thayer cho rằng trong lĩnh vực an ninh thuần túy, xu thế đó không phải là điều đáng ngại đối với Việt Nam .
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
- Giáo sư có nghĩ rằng việc quan hệ được tăng cường giữa Trung Quốc với Campuchia và Lào đang là hoặc sẽ là một mối đe dọa đối với an ninh của Việt Nam hay không?
+ Quan hệ song phương của Trung Quốc với Campuchia và Lào không tạo thành mối đe dọa an ninh trực tiếp nào đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai. Cả Campuchia lẫn Lào đều tìm cách bảo đảm cho mình quyền tự do hành động nhất định. Quan hệ giữa Campuchia với Lào và Trung Quốc trong một chừng mực nào đó cũng sẽ được điều hòa thông qua khối ASEAN. Hai mục tiêu của Bắc Kinh tại Campuchia và Lào
Trung Quốc tìm kiếm lợi ích kinh tế tại Campuchia và Lào. Riêng tại Lào, Trung Quốc phải cạnh tranh với Thái Lan và Việt Nam. Bắc Kinh cũng hy vọng sẽ không có nước nào đề ra chính sách đối ngoại thiếu thân thiện và chống lại lợi ích của Trung Quốc. Cho đến giờ, không có bằng chứng nào cho thấy Bắc Kinh đã gây áp lực để buộc Phnom Penh hay Viêng Chăn phải chọn lựa giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Quan hệ quân sự giữa Trung Quốc với Campuchia và Lào rất hạn chế, do đó không tạo thành một mối đe dọa cho Việt Nam . Sĩ quan quân đội Trung Quốc có mặt trên cả lãnh thổ Campuchia lẫn Lào để quản lý các chương trình hợp tác quốc phòng, nhưng số lượng không đông lắm nên không có gì đáng ngại cho Việt Nam . Trong thực tế, Việt Nam có mối quan hệ hợp tác quốc phòng tương đối mạnh mẽ với cả hai nước Lào và Campuchia, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo sĩ quan. Lào giữ một vị trí đặc biệt trong mối quan hệ an ninh với Trung Quốc bởi vì hai bên chia sẻ một đường biên giới chung và đều phải đối phó với các mối đe dọa xuyên quốc gia. Tuy nhiên, đấy cũng là tình hình giữa Lào và Việt Nam .
Campuchia đang hướng trở lại Việt Nam
Ngoại trừ thời kỳ cách đây 2 năm, khi Campuchia với tư cách là Chủ tịch ASEAN, đã tìm cách không đề cập đến vấn đề Biển Đông trong ‘Thông cáo chung’ của các Ngoại trưởng ASEAN, hiện Campuchia không còn bị Trung Quốc sử dụng như một con tốt chính trị nhằm gây thiệt hại cho Việt Nam. Có những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc bắt đầu giữ khoảng cách với Thủ tướng Hun Sen do kết quả kém cỏi của Đảng Nhân dân Campuchia trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây. Bắc Kinh không muốn tình trạng bất ổn tại Campuchia lan rộng và đe dọa các lợi ích kinh tế của Trung Quốc. Bắc Kinh như đang kín đáo điều chỉnh sách lược để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp Đảng Nhân dân Campuchia bỏ rơi ông Hun Sen, hay trong trường hợp lãnh tụ đảng đối lập Sam Rainsy lật đổ chế độ của Đảng Nhân dân Campuchia. Thủ tướng Hun Sen dường như đã nhận thấy sự thay đổi đó, và đã chuyển hướng quay sang tìm kiếm một quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản và tăng cường quan hệ trở lại với Việt Nam .
- Nhiều người cho rằng Trung Quốc hiện đang áp dụng một chính sách ép Việt Nam từ hai phía, trên biển là từ Biển Đông, còn trên bộ là củng cố thế lực tại hai nước sát cạnh Việt Nam là Lào và Campuchia. Giáo sư có ý kiến gì về vấn đề này?
+ Vấn đề thực sự nghiêm trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc là tranh chấp lãnh thổ giữa hai bên tại khu vực Biển Đông. Không thấy có dấu hiệu là Trung Quốc đang tìm cách kiềm chế Việt Nam , trái lại, Bắc Kinh còn đẩy mạnh thêm quan hệ với Hà Nội. Trung Quốc thường tìm cách làm dịu các chính sách hay hành động nào của Việt Nam mà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của họ.
Mục tiêu lớn của Bắc Kinh là làm sao kết nối các tỉnh miền Nam Trung Quốc với khu vực lục địa Đông Nam Á. Trung Quốc lợi dụng sức mạnh kinh tế của mình và mong muốn cả ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam phát triển để thực hiện mục tiêu trên. Tuy nhiên trong phương trình đó lại có sự tồn tại của Mỹ với tư cách là thị trường xuất khẩu lớn nhất cho Việt Nam và Campuchia. Phản ứng bất bình của người dân trước cung cách làm ăn của Trung Quốc
- Giáo sư đánh giá thế nào về phản ứng của Việt Nam trước đà vươn lên của Trung Quốc tại Lào và Campuchia?
+ Việt Nam nhận thức rất rõ về ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc tại Campuchia và Lào. Thế nhưng, ảnh hưởng của Trung Quốc cũng gia tăng khắp nơi, và Việt Nam hiểu rõ xu thế đó. Đối với Lào, Việt Nam vẫn duy trì các mối quan hệ hữu nghị giữa hai đảng cầm quyền. Các tầng lớp chính trị ở Lào cũng tìm cách duy trì mối quan hệ lịch sử với Việt Nam, cho dù trong đảng Nhân dân Cách mạng Lào có một số quan điểm cho rằng đất nước này sẽ có lợi nhiều hơn nếu đứng hẳn về phía Trung Quốc, nhưng các thành phần này đã không thắng được phía chủ trương tìm kiếm một sự cân bằng trong mối quan hệ với Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Cũng cần phải lưu ý rằng hiện đang có một làn sóng ngầm, hoặc một phản ứng đi ngược lại của một bộ phận quan trọng trong dân chúng ở cả Lào lẫn Campuchia chống lại công việc kinh doanh của người Trung Quốc tại hai quốc gia này. Nguyên nhân bắt nguồn từ cung cách làm ăn thô bạo của các doanh nghiệp Trung Quốc, trong đó có việc lấy đất của người dân, và đưa lao động Trung Quốc đến làm việc ở các nước đó. Việt Nam có vai trò đối trọng với thế lực Trung Quốc tại Lào và Campuchia
- Hiện Việt Nam có mức độ quan trọng như thế nào tại hai nước láng giềng Lào và Campuchia?
+ Việt Nam rất quan trọng đối với Lào và Campuchia về phương diện kinh tế vì lẽ Việt Nam là một đối tác kinh tế lớn trong khu vực. Gần đây, lượng hàng hóa Việt Nam đổ vào Campuchia đã tăng vọt sau cuộc khủng hoảng biên giới giữa Campuchia và Thái Lan. Việt Nam cũng rất quan trọng đối với hai láng giềng trên bình diện an ninh do các hoạt động tội phạm xuyên quốc gia dọc theo đường biên giới chung giữa hai bên. Sau cùng, Việt Nam quan trọng đối với Lào và Campuchia trong vai trò một đối trọng tiềm tàng cho hai nước này trước Trung Quốc. Suy cho cùng, cả ba nước đều là thành viên của ASEAN và đã xây dựng một kiểu liên minh đặc biệt (bao gồm cả Myanmar), để vận động toàn khối dành cho họ một cách đối xử đặc biệt, với tư cách là các nước kém phát triển trong khối ASEAN. Cả ba nước đều chia sẻ một mối quan tâm chung đối với tình trạng ở vùng hạ nguồn sông Mekong, và sự phát triển của khu vực được gọi là Tiểu vùng sông Mekong mở rộng./.
Mỹ cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông: Cơ hội tốt cho Việt Nam
(Đài RFI 24/2)
Từ cuối năm 2013, các tuyên bố chính thức cũng như không chính thức của giới lãnh đạo ngoại giao và quân sự Mỹ về Biển Đông đã cứng rắn hơn hẳn đối với Trung Quốc, vào lúc Bắc Kinh càng ngày càng có thêm các hành động được coi là khiêu khích, để áp đặt bằng sức mạnh các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Đối với giới quan sát, việc lập trường của Washington được tái khẳng định một cách mạnh mẽ là một cơ hội tốt mà các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, cần phải tranh thủ để chống lại áp lực từ phía Trung Quốc.
Từ cuối năm 2013, ý đồ thâu tóm Biển Đông của Trung Quốc đã bộc lộ rõ nét qua 2 sự kiện, liên quan đến cả vùng biển lẫn vùng không phận của khu vực. Đầu tiên là việc Bắc Kinh cho áp dụng lệnh buộc tàu cá nước ngoài phải xin phép trước, nếu muốn vào hoạt động trong vùng biển mà Trung Quốc tự nhận chủ quyền, tức là phần lớn diện tích của Biển Đông, kể từ ngày 1/1/2014. Theo nhiều nhà phân tích, quyết định này chủ yếu nhằm vào ngư dân Việt Nam, vốn thường xuyên đến đánh bắt tại khu vực ngư trường truyền thống của mình là quần đảo Hoàng Sa - bị Trung Quốc đánh chiếm từ năm 1974, và đang bị Bắc Kinh dùng làm cơ sở để khống chế vùng Biển Đông.
Bắc Kinh với ý đồ chiếm lĩnh cả bầu trời Biển Đông
Bên cạnh quyết định liên quan đến vùng biển kể trên, Trung Quốc cũng không che giấu ý định thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông, tương tự như những gì họ đã làm trên biển Hoa Đông. Sau khi kế hoạch này bị báo chí Nhật Bản vạch trần (Asahi Shimbun, ngày 31/1/2014), Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lập tức chính thức lên tiếng cải chính. Thế nhưng, theo các nhà phân tích, việc Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông là một khả năng hoàn toàn có thực, căn cứ vào tuyên bố tháng 11/2013 của một Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Theo đó, họ sẽ thiết lập các vùng nhận dạng phòng không khác theo kiểu khu vực trên biển Hoa Đông, “vào một thời điểm thích hợp sau khi hoàn tất các công tác chuẩn bị”. Hai yếu tố kể trên đã khiến các nước trong khu vực hết sức lo ngại, và từ cuối năm 2013, các quan chức ngoại giao và quốc phòng Mỹ đã cùng với các đồng minh trong khu vực liên tiếp lên tiếng cảnh báo Trung Quốc về tác hại của các quyết định nói trên đối với tình hình ổn định và an ninh trong khu vực.
Mặt trận mới của Mỹ: Tấn công đường lưỡi bò và ủng hộ vụ kiện của Philippines
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hầu như đã tranh thủ mọi cuộc gặp với các bên tham gia tại châu Á, từ Philippines, Nhật Bản, cho đến Indonesia, ASEAN, và cả với Trung Quốc để nhắc lại quan điểm kiên quyết phản đối của Washington đối với một vùng nhận dạng phòng không mà Bắc Kinh muốn đơn phương tuyên bố tại Biển Đông. Quan điểm cứng rắn của người đứng đầu ngành ngoại giao Mỹ đã được một loạt các tướng lĩnh trong quân đội nước này phụ họa, từ tướng Herbert ‘Hawk’ Carlisle, Tư lệnh Không quân Mỹ tại Thái Bình Dương, trong một bài phỏng vấn dành cho hãng tin Mỹ Bloomberg ngày 9/2, tại Singapore, cho đến phát biểu của Đô đốc Jonathan Greenert, Tư lệnh Tác chiến Hải quân của Hải quân Mỹ, tại Philippines ngày 13/2.
Theo giới quan sát, ngoài thái độ kiên quyết chống một vùng nhận dạng phòng không mới của Trung Quốc trên Biển Đông, Mỹ lần này đã thẳng thừng đả kích tấm bản đồ đường lưỡi bò mà Bắc Kinh đang sử dụng để áp đặt yêu sách của họ trên Biển Đông, đồng thời công khai tuyên bố ủng hộ việc Philippines kiện các đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc trên Biển Đông. Tất cả các yếu tố kể trên đều đã được ông Daniel Russel, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách châu Á-Thái Bình Dương nêu bật trước Hạ viện Mỹ ngày 5/2, khi ông cảnh cáo Trung Quốc rằng không nên tìm cách thiết lập một vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông.
Việt Nam cần ủng hộ Philippines và làm rõ quy chế các đảo trên Biển Đông.
Theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia về Biển Đông tại trường Đại học Maine (Mỹ), thái độ cứng rắn trở lại của Mỹ về hồ sơ Biển Đông là một cơ hội tốt để Việt Nam thúc đẩy các hồ sơ chủ quyền của mình, vì sự can dự mạnh mẽ của Mỹ sẽ có sức lôi kéo đối với các nước ASEAN đang còn e ngại Trung Quốc. Tuy nhiên, để tranh thủ cơ hội tốt này, theo Giáo sư Long, Việt Nam phải mạnh dạn tiến thêm 2 bước. Một là tích cực hơn trong việc hưởng ứng vụ Philippines kiện Trung Quốc ra trước Tòa án Liên Hợp Quốc, với tư cách “nước làm chứng”, và hai là xác định rõ và công bố quan điểm của Việt Nam về các thực thể địa lý trên Biển Đông. Theo Giáo sư Long, chỉ bằng cách nhấn mạnh sự khác biệt của mình trước các đòi hỏi tham lam của Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh mối đe dọa đối với an ninh khu vực của việc Trung Quốc khống chế vùng Hoàng Sa, thì Việt Nam mới thúc đẩy được hồ sơ Biển Đông theo chiều hướng có lợi cho mình.
Trả lời phỏng vấn của RFI, Giáo sư Ngô Vĩnh Long trước hết nêu bật 3 lý do thúc đẩy Mỹ tỏ thái độ cứng rắn trở lại đối với vấn đề Biển Đông trong thời gian gần đây:
+ Theo tôi có 3 lý do chính: Một là để chứng minh rằng Mỹ không lơ là châu Á như một số nước trong khu vực Đông Nam Á đã công khai chỉ trích. Hai là để chứng minh Mỹ không bị Trung Quốc đánh lạc hướng, khi Trung Quốc dùng việc tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku nhằm làm cho Mỹ lơ là Đông Nam Á. Philippines đã rất khôn khéo trong việc nhắc nhở Mỹ, qua đó cho Mỹ biết trọng điểm chính sách của Mỹ là ở Đông Nam Á chứ không phải trên biển Hoa Đông. Nỗ lực của Philippines trong vấn đề này rất quan trọng. Thứ ba là để đáp lại với những nỗ lực của Philippines trong việc nhắc nhở trách nhiệm của Mỹ về việc này. Chúng ta biết rằng Ngoại trưởng Albert del Rosario, tại một cuộc họp bộ trưởng ASEAN vào ngày 16-17/1 ở Myanmar, đã kêu gọi ASEAN duy trì sự đoàn kết trong khu vực, và trước việc Trung Quốc ra lệnh cấm đánh cá tại khu vực Biển Đông, cũng như việc Trung Quốc có thể đưa ra vùng nhận dạng phòng không. Nhưng lại có một số nước tỏ ra không quan tâm, trong đó có Malaysia, khi đó Philippines thấy không thể gây áp lực buộc một số nước ASEAN ủng hộ nỗ lực chung về an ninh trong khu vực, nếu không gây áp lực cho Mỹ. Vì Mỹ có vai trò rất lớn trong việc làm cho các nước Đông Nam Á cùng nhau đi đến một nỗ lực chung. Ngày 4/2, Tổng thống Philippines Aquino trong một cuộc phỏng vấn với tờ New York Times đã kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để chống lại chiến lược xâm chiếm ở Biển Đông. Do đó, ngày hôm sau, vấn đề này được đưa ra điều trần trước Quốc hội và đường lối của Philippines đã được ủng hộ. Cho nên, trong việc này vai trò của Philippines rất quan trọng.
- Còn trong phần trình bày của ông del Rosario có vấn đề Mỹ công khai chỉ trích đường lưỡi bò, và đồng thời nói đường lưỡi bò của Trung Quốc không phù hợp với Luật biển của LHQ. Phải chăng đây là lần đầu tiên Mỹ chỉ trích một cách rõ ràng đường lưỡi bò của Trung Quốc?
+ Vâng, vấn đề đường lưỡi bò là một vấn đề phi lý, tất cả các nước trên thế giới đã ký hay không ký Công ước LHQ về Luật biển (UNCLOS) đều thấy nó phi lý và không phù hợp. Mỹ cũng đã nhiều lần nói như vậy, nhưng lần này Mỹ nói rõ là vì Mỹ lần đầu tiên thừa nhận rằng mình có trách nhiệm đối với khu vực và đối với Trung Quốc. Tại sao nói Mỹ có trách nhiệm với Trung Quốc? Bởi vì Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, nếu Mỹ cứ để cho Trung Quốc gây hấn trong khu vực, gây mất ổn định thì vấn đề này có hại cho Mỹ cũng như cho các nước khác. Mỹ đã ký UNCLOS, mặc dù Quốc hội chưa thông qua nhưng Mỹ vẫn có trách nhiệm. Trước đây, Mỹ đã ra một điều luật rằng sẽ thi hành hết mức cam kết đối với Công ước LHQ về Luật biển. Từ đó đến nay, Mỹ vẫn thi hành đúng luật. Mặc dù Quốc hội Mỹ chưa thông qua, nhưng đó vẫn là đạo luật của Mỹ.
Nhiều người nghĩ Mỹ và Trung Quốc sắp có chiến tranh và giữa hai nước có sự tranh giành ảnh hưởng… Theo tôi, điều đó chỉ đúng một phần nào đó, nhưng thật ra quan hệ Mỹ-Trung Quốc là quan hệ cộng sinh. Do đó bất cứ điều gì có hại cho Trung Quốc thì cũng có hại cho Mỹ. Việc Trung Quốc ngày càng gây hấn trong khu vực sẽ làm mất ổn định an ninh khu vực, cho nên vấn đề Mỹ lên tiếng là đúng. Tuy nhiên vẫn chưa đủ. Tại sao? Vì ông Del Rosario nói bất cứ đòi hỏi nào của Trung Quốc đối với đường hàng hải không dựa trên hình thể lãnh thổ đất liền đều không phù hợp với luật pháp quốc tế. Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn trong vấn đề lưỡi bò, nên tôi nghĩ Việt Nam cần có chính sách tích cực, nói chuyện với Malaysia hoặc với một nước khác trong Đông Nam Á rằng trước khi đi đến việc hoàn thành Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông thì nên đồng ý không có một hòn đảo nào trên Biển Đông có lãnh hải xa hơn 12 hải lý, và nói cho các nước khác biết rằng Việt Nam đưa ra tuyên bố đó để bảo vệ an ninh trên biển và sẽ mở rộng hợp tác trên Biển Đông không chỉ với các nước trong khu vực mà cả thế giới. Đây là đề nghị tôi đã đưa ra từ nhiều năm qua, và tôi nghĩ rằng ít nhất đề nghị này cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều nước Đông Nam Á, mà có được sự ủng hộ đó thì Mỹ mới có cơ hội ủng hộ các nước Đông Nam Á. Nếu không sẽ rất khó cho Mỹ. Hiện nay Mỹ chỉ có thể ủng hộ việc Philippines đem ra kiện vấn đề đường lưỡi bò.
- Gần đây có một bài báo nói rằng trong vụ kiện của Philippines đối với Trung Quốc, có khả năng một số nước khác sẽ cho biết ý kiến của mình, dù là không phải là bên tranh tụng. Theo giáo sư, phải chăng đó cũng là một cánh cửa mở cho Việt Nam để có thể tham gia một cách gián tiếp vụ kiện đó?
+ Đúng, một số người ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói bây giờ Việt Nam chỉ ngầm ủng hộ Philippines vì nhiều nguyên do trong quan hệ Việt-Trung. Hiện nay Việt Nam chưa thể công khai vấn đề này. Nhưng đến một lúc nào đó, vì lợi ích quốc gia, Việt Nam phải chọn một trong hai cách: một là kiện thẳng Trung Quốc; hai là ủng hộ Philippines một cách công khai. Tôi nghĩ rằng, thời điểm tốt nhất là ngay bây giờ, vì chuyện ủng hộ vụ kiện của người khác, theo luật quốc tế không có gì được gọi là chống Trung Quốc. Vấn đề là phải nói rõ cho thế giới biết như vậy, Việt Nam cần trở thành một nước làm chứng về việc làm của Trung Quốc, vì điều này không những gây hại cho Philippines mà còn gây hại cho mốt số nước khác.
- Nhưng làm chứng chống Trung Quốc mặc nhiên là chống Trung Quốc. Phải chăng đó là điều mà Chính phủ Việt Nam hiện nay vẫn còn e ngại?
+ Vâng, nhưng ở đây là làm chứng để ủng hộ vấn đề luật pháp quốc tế, phù hợp với vấn đề an ninh trong khu vực, chứ không phải để chống Trung Quốc. Trong nhà anh em cũng có nhiều chuyện cãi nhau, khi không giải quyết được thì phải đưa ra tòa, nhưng khi đưa ra tòa không có nghĩa là không còn anh em nữa. Phải có một người khác hiểu luật, để đứng ra phân xử.
- Theo giáo sư, thời cơ vào lúc này có thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy hồ sơ Biển Đông của mình?
+ Đúng, đó cũng là lý do tại sao gần đây Mỹ không chỉ nói chuyện với Việt Nam mà vào ngày 17/2, Ngoại trưởng Kerry cũng đã hối thúc ASEAN đẩy nhanh việc hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Ông nói nếu vấn đề này để kéo dài thì sẽ có bất lợi lớn cho các nước trong khu vực. Ông Kerry cũng nói việc Philippines đưa Trung Quốc ra tòa án trọng tài LHQ là một vấn đề rất đúng đắn và ông ủng hộ vấn đề đó. Tôi nghĩ trong lúc này, Việt Nam đang có cơ hội rất tốt để hưởng ứng vụ kiện của Philippines và cũng thúc đẩy ASEAN nhanh chóng hoàn tất bộ quy tắc ứng xử./.
Sự điều chỉnh chính sách quân sự của Mỹ
Theo trang “Tin Trung Đông” , trong bài phát biểu quan trọng tại Diễn đàn an ninh toàn cầu của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Quốc tế (CSIS) ngày 5/11/2013, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel tuyên bố Lầu Năm Góc cần phải thực hiện những thay đổi quan trọng “trên mọi phương diện” trong Bộ quốc phòng Mỹ (DoD), trong đó tập trung vào các lĩnh vực chủ chốt như tổ chức lực lượng, huấn luyện quân đội và mua bán trang thiết bị sẽ được đánh giá, xem xét lại trong thời gian 4 năm, dự kiến Quốc hội xem xét trong năm 2014... Theo Bộ trưởng Hagel, “mục tiêu là đảm bảo những lực lượng đó thực hiện tốt hơn mục tiêu của chúng tôi trong môi trường chiến lược thay đổi, phát triển tiềm lực của đồng minh và đối tác, đối phó với những mối đe dọa hiện hữu thực sự đối với thế giới và xác định tiềm lực quân sự mới trong tay lực lượng của chúng tôi và trong tay những đối thủ tiềm tàng của chúng tôi. Chúng ta phải đảm bảo rằng những khả năng bất ngờ có thể xảy ra quyết định cơ cấu lực lượng quân sự chứ không phải các nhân tố xung quanh”. Cũng theo Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, DoD cần phải chuẩn bị cho quân dự bị trong tương lai mà không cần đào tạo nhiều cấp như hiện nay. “Chúng ta phải chấp nhận thực tế rằng từng đơn vị sẽ luôn sẵn sàng trực chiến và không thể tránh khỏi một số hình thức sẵn sàng chiến đấu khác”.
Sự điều chỉnh ngân sách và kế hoạch chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng tập trung vào 6 nội dung chủ chốt sau:
- Cải cách thể chế. Mùa Hè năm nay, Bộ trưởng Hagel đã tuyên bố cắt giảm 20% ngân sách đối với các đơn vị thuộc Bộ quốc phòng, bắt đầu ngay từ Văn phòng Bộ.
- Đánh giá lại cơ cấu xây dựng lực lượng quân sự. Theo ông Hagel, “mục đích là để đảm bảo thể hiện tốt hơn mục tiêu của chúng ta và điều chỉnh môi trường chiến lược, phát triển khả năng của các đồng minh và đối tác của Mỹ, đối phó với những mối đe dọa thực sự đối với thế giới, xác định tiềm lực quân sự hiện tại và trong tương lai của chúng tôi”.
- Chuẩn bị cho thách thức quân sự lâu dài. Đây là trách nhiệm cao nhất đối với lực lượng quân sự Bộ quốc phòng. “Chúng tôi đã chứng kiến những đơn vị bàn giấy, tham mưu (nhân viên dân sự) sẵn sàng giảm biên chế khi hoạt động huấn luyện, đào tạo bị giảm bớt, giờ bay bị cắt giảm, tàu chiến không được triển khai và hoạt động tập luyện bị hủy bỏ”.
- Thúc đẩy đầu tư chú trọng vào những lĩnh vực quân sự tiềm năng mới xuất hiện, đặc biệt là không gian mạng, lực lượng hành động đặc biệt, tình báo, giám sát và trinh sát. “Khi đối thủ tiềm tàng của chúng tôi đầu tư vào năng lực tác chiến tinh vi hơn và tìm cách vô hiệu hóa lợi thế truyền thống quân sự của chúng tôi, trong đó bao gồm cả tự do hành động và sự tiếp cận, truy cập… trên toàn thế giới. Việc duy trì lĩnh vực công nghệ mang tính quyết định sẽ là rất quan trọng”.
- Cân bằng giữa năng lực và khả năng. “Trong một số trường hợp, chúng ta cần phải có điều chỉnh ví dụ như bằng cách ưu tiên cho lực lượng quân đội tinh gọn, hiện đại và có khả năng hơn là một đơn vị lớn với trang thiết bị lỗi thời. Chúng tôi cũng sẽ ủng hộ hoạt động toàn cầu tích cực và phối hợp lực lượng với đơn vị đồn trú”.
- Chính sách nhân sự và đền bù. “Nếu không có những nỗ lực nghiêm túc để đạt được sự tiết kiệm đáng kể trong lĩnh vực này, trong đó chi tiêu khoảng một nửa ngân sách quốc phòng và con số đó tăng dần theo từng năm, thì chúng ta có nguy cơ trở thành một lực lượng không cân xứng, lạc hậu, trang thiết bị và huấn luyện nghèo nàn do tiềm lực và sự sẵn sàng còn hạn chế”.
Để tiến lên phía trước, Bộ quốc phòng Mỹ cần phải có quyết định lựa chọn rất khó khăn trong từng lĩnh vực để đảm bảo rằng lực lượng vũ trang phải vững mạnh trong thế kỷ 21. Kế hoạch cải cách là một biện pháp để đối phó với tình trạng cắt giảm ngân sách vì nó tập trung vào tất cả các lĩnh vực quân sự.
Nghiên cứu, thử nghiệm và chạy đua
Chi tiêu của Mỹ vào vũ khí bị đánh giá là giảm đi đáng kể do khủng hoảng tài chính của các quốc gia trên thế giới. Phát biểu trước Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ vào tháng 2/2013, Tham mưu trưởng liên quân, Tướng Martin E. Dempsey, cho biết “cắt giảm quân sự sẽ đặt đất nước trước nguy cơ bị ép buộc lớn hơn” trong bối cảnh một số chương trình quân sự quan trọng đang và sẽ được Mỹ thực hiện, gây thêm nhiều lo ngại cho các quốc gia khác trên thế giới. Ngày 1/5/2013, lực lượng không quân Mỹ đã thử máy bay không người lái siêu thanh X-51A Wave Rider tại bang California . Đây là một bước đột phá trong công nghệ siêu âm có thể sử dụng để thực hiện các chuyến không kích trên toàn thế giới trong vài phút. Bài thử hôm 1/5 đánh dấu chuyến bay thứ 4 và cũng là cuối cùng của chiếc X-51A thuộc không quân Mỹ. Cơ quan này đã chi 300 triệu USD để nghiên cứu công nghệ phản lực tĩnh siêu âm với kỳ vọng nó có thể được sử dụng để thực hiện các cuộc tấn công trên toàn thế giới chỉ trong vài phút. Wave Rider được thiết kế có thể đạt tốc độ Mach 6 (gấp 6 lần vận tốc âm thanh), đủ nhanh để bay qua Đại Tây Dương và không kích mục tiêu ở châu Âu trong vòng chưa đầy một giờ. Wave Rider có hình dáng giống tên lửa được phóng đi từ máy bay ném bom B-52 ở độ cao khoảng hơn 15.000 m trên Thái Bình Dương và ban đầu được một tên lửa hỗ trợ tăng tốc trước khi động cơ phản lực tĩnh siêu âm hoạt động. Nó đạt vận tốc Mach 4,8 trong chưa đầy nửa phút nhờ tên lửa tăng tốc dùng nhiên liệu rắn. Sau khi tách khỏi tên lửa, động cơ phản lực tĩnh siêu âm được kích hoạt, tiếp lực giúp chiếc máy bay đạt vận tốc Mach 5,1 ở độ cao 18.000 m, trước khi lao xuống biển theo kế hoạch. Wave Rider đã bay hơn 370 km trong chỉ 6 phút, trở thành chuyến bay siêu âm dài nhất đối với loại máy bay này.
Nhiều thông tin chi tiết về chương trình này vẫn được giữ bí mật. Những gì hiện giờ được hé lộ là lực lượng không quân Mỹ tiếp tục nghiên cứu động cơ siêu thanh. Sự thành công của X-51A sẽ góp phần vào chương trình vũ khí không kích tốc độ cao hiện đang trong giai đoạn hình thành. Hãng Lockheed Martin đã tiết lộ kế hoạch phát triển máy bay do thám SR-72 có thể bay với tốc độ siêu thanh. SR-72 sẽ sử dụng một động cơ kết hợp giữa tuabin và phản lực để đạt vận tốc tối đa gấp 6 lần tốc độ âm thanh - March 6 (khoảng 5.800 km/h). Loại máy bay này được thiết kế sử dụng những nguyên liệu sẵn có phù hợp với nguồn ngân sách khó khăn hiện tại. Tạp chí Công nghệ vũ trụ hàng không đã đăng một chuyên đề độc quyền về SR-72. Theo đó, SR-72 có kích thước tương tự như Blackbird SR-71, máy bay có người lái nhanh nhất thế giới có từ thời Chiến tranh Lạnh, nhưng có khả năng bay nhanh gấp hai lần. Nó có tốc độ cực nhanh, là máy bay siêu thanh không người lái đầu tiên được đưa vào sản xuất. Ở tốc độ Mach 6, máy bay có thể bay 5.500 km từ New York tới London chỉ trong chưa đầy 1 giờ. Mặc dù các vệ tinh do thám có thể chụp ảnh lãnh thổ đối phương, nhưng việc chúng cần thời gian tương đối dài để di chuyển tới quỹ đạo mới nhằm ghi hình mục tiêu đã hạn chế tính hữu ích của chúng. Ngưới phát ngôn Tập đoàn Lockheed Martin cho biết trong khi đó, SR-72 “có thể bay nhanh tới nỗi đối phương không có thời gian để hành động hoặc trốn chạy”. Theo lộ trình phát triển máy bay siêu thanh của không quân Mỹ, SR-72 được thiết kế để đáp ứng yêu cầu của các nhà hoạch định chính sách quốc phòng gia tăng quãng đường bay để phản ứng nhanh nhạy trước tình trạng bùng nổ vệ tinh, do vậy cần có máy bay người lái và không người lái siêu thanh để thay thế cho SR-71. SR-71 cất cánh thử lần đầu vào năm 1964 và từng là trụ cột trong hoạt động giám sát và theo dõi của không quân Mỹ cho đến năm 1998. Nó thường bay ở độ cao 24.000 m và có thể đạt vận tốc Mach 3.
Máy bay SR-72 còn có khả năng tấn công lựa chọn. Tính toán này cũng phù hợp với lộ trình chế tạo máy bay siêu thanh của Không quân Mỹ, dự kiến phát triển vũ khí tấn công siêu thanh đến năm 2020 và phát triển máy bay tấn công, tình báo, giám sát và trinh sát (ISR) đến năm 2030. Mỹ đã lên kế hoạch để sở hữu các loại vũ khí tấn công tốc độ cao (HSSW) vào năm 2018, tên lửa siêu thanh cũng đang được Lực lượng không quân Mỹ chế tạo. Máy bay siêu thanh Wave Rider đề cập ở trên hoàn toàn phù hợp với SR-72, giúp tăng cường khả năng tấn công ban đầu (Hệ thống vũ khí tấn công chớp nhoáng toàn cầu - PGS) rõ ràng sẽ được chế tạo nhiều hơn để đáp trả các nhóm khủng bố. Thiết bị quân sự siêu thanh là loại vũ khí đáng gờm chống lại cơ sở chỉ huy và kiểm soát hạ tầng cũng như các căn cứ tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM). Máy bay tốc độ cao SR-72 cũng có khả năng phát hiện và tấn công các mục tiêu nhanh rất hiệu quả.
Kỹ sư hãng Lockheed Martin Brad Leland, trưởng nhóm nghiên cứu máy bay SR-72 trong 7 năm qua, cho biết loại máy bay này sẽ mang lại khả năng thay đổi cuộc chơi cho lực lượng quân sự. SR-72 với động cơ hai kỳ có khả năng nhằm vào tất cả mục tiêu chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ với số chi phí chế tạo xấp xỉ 1 tỷ USD trong khoảng thời gian 5 - 6 năm. Mục đích của việc chế tạo SR-72 là để mang lại cho Mỹ nền tảng thế hệ máy bay trinh sát siêu thanh và không kích. Theo Brad Leland, “máy bay cùng tên lửa siêu thanh có thể xâm nhập không phận đối thủ trên toàn lục địa chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ”. Ông Leland cũng cho biết phải mất 5 - 6 năm để hoàn thiện việc phát triển SR-72 và chuyến bay thử đầu tiên diễn ra sớm nhất là năm 2018. Nhiều khả năng nó sẽ được đưa vào phục vụ trong quân đội Mỹ năm 2030. Thông tin chi tiết về máy bay do thám siêu thanh xuất hiện vào thời điểm ngay sau khi Lockheed Martin, nhà cung cấp lớn nhất cho Lầu Năm Góc, hợp tác với tập đoàn cung ứng lớn thứ hai Boeing để chế tạo máy bay ném bom tầm xa thế hệ mới cho Lầu Năm Góc.
Lockheed Martin, Boeing và các tập đoàn chế tạo vũ khí lớn đang gây áp lực buộc Lầu Năm Góc tiếp tục tài trợ chương trình phát triển máy bay thế hệ mới cho dù Bộ Quốc phòng Mỹ bị Quốc hội cắt giảm ngân sách đáng kể. Họ cho rằng việc rút lui khỏi dự án này có thể hạn chế ưu thế quân sự của Mỹ trong những năm tới. Ngày 11/12/2013, máy bay siêu thanh Boeing X-37B tiến hành chuyến bay thử lần thứ ba. X-37B được nghiên cứu, chế tạo từ năm 1999, năm 2004 được chuyển giao cho Cục kế hoạch nghiên cứu cao cấp của Bộ quốc phòng Mỹ, năm 2006 tiếp tục được không quân tiếp nhận, quá trình thực nghiệm do Văn phòng năng lực phản ứng nhanh của không quân Mỹ (RCO) phụ trách. Về nguyên lý kỹ thuật, X-37B dài 9 m, cao 3 m, sải cánh 4.5 m, nặng khoảng 5 tấn, kích thước khoảng bằng 1/4 máy bay không người lái khác. Nó có thể vận hành tự động trong khi bay mà không cần có sự điều khiển từ mặt đất. Thiết kế của X-37B được tích hợp các đặc điểm của máy bay và tàu vũ trụ. Ở khu vực cận vũ trụ (cách trái đất khoảng từ 20 – 100 km), tốc độ của nó có thể đạt tới 27000 km/h. Trải qua 3 lần bay thử, các kỹ thuật then chốt của X-37B ngày một hoàn thiện.
Trước hết là kỹ thuật kiểm soát bay cơ động thay đổi quỹ đạo và bố cục khí động học. X-37B lựa chọn kỹ thuật thay đổi quỹ đạo cao của hệ thống động lực tên lửa siêu thanh trong môi trường 2 miền không gian. Nó được trang bị 2 động cơ thay đổi quỹ đạo, 12 thiết bị đẩy khống chế lực cản chính, 8 thiết bị đẩy vi chỉnh khống chế lực cản được lắp đặt phía sau, 6 thiết bị đẩy vi chỉnh khống chế lực cản lắp đặt phía trước, khả năng cơ động thay đổi quỹ đạo rất mạnh.
Về công nghệ thiết kế tích hợp của X-37B. Tốc độ bay của X-37B có thể đạt từ Mach 5 đến Mach 25, bay từ trong ra ngoài tầng khí quyển, nơi mật độ các tầng không khí biến đổi vô cùng lớn, từ đậm đặc đến loãng. Vì vậy, công nghệ tích hợp thân của thiết bị bay và hệ thống động lực là vô cùng quan trọng. Tiếp theo là vật liệu chế tạo và công nghệ kết cấu của nó. Khi bay với tốc độ siêu cao, ma sát với không khí sẽ sinh nhiệt rất lớn, bề mặt thân của X-37B có thể lên đến nhiệt độ khoảng 1.800 độ C, nên vật liệu kết cấu phải bảo đảm chịu nhiệt tốt, chống ăn mòn, nhẹ và có độ bền cao. Với việc tái sử dụng động cơ cất cánh thẳng đứng không người lái, X-37B có thể hạ cánh rất dễ dàng. Đáng chú ý, X-37B có thể điều chỉnh hướng bay trong không gian thay vì bay theo quỹ đạo đã được định trước. Năng lượng hoạt động của máy bay này được tích hợp năng lượng mặt trời, cho phép nó có thể vận hành hoạt động trong không gian đến 270 ngày. Chắc chắn X-37B là một loại hình máy bay do thám cũng như thử nghiệm cho mô hình “máy bay ném bom vũ trụ” tương lai có thể tiêu diệt mục tiêu từ trên quỹ đạo. Không loại trừ khả năng máy bay này sẽ được trang bị bom hạt nhân, thiết bị theo dõi vệ tinh hay thiết bị tiêu diệt bằng vệ tinh. Ngày 2/11, Hải quân Mỹ đã chính thức đặt tên cho chiếc tàu ngầm tấn công mới nhất là USS North Dakota (SSN 784) trong một buổi lễ được tổ chức tại nhà máy đóng tàu General Dynamics Electric Boat (GDEB) ở Groton thuộc bang Connecticut. Chiếc tàu ngầm tấn công hạt nhân này hiện đang được các nhà máy đóng tàu GDEB và Newport News , một chi nhánh thuộc Tập đoàn Công nghiệp Huntington Ingalls, đóng theo một thỏa thuận liên doanh. Đây sẽ là chiếc tàu đầu tiên của Hải quân Mỹ mang tên USS North Dakota. Lễ đặt tên diễn ra đúng dịp kỷ niệm 124 năm ngày North Dakota trở thành bang thứ 39 của nước Mỹ. Sau lễ đặt tên, tàu ngầm này sẽ tiếp tục được hoàn thiện trong vài tháng tới và sẽ được phiên chế chính thức cho Hải quân Mỹ vào đầu năm 2014. Tàu ngầm USS North Dakota là tàu ngầm tấn công hạt nhân thứ 11 thuộc lớp Virginia, với chi phí đóng lên tới 2,6 tỷ USD. Tàu ngầm này có khả năng tàng hình, linh hoạt và tốc độ nhanh hơn các lớp tàu trước, giúp chúng có thể hoạt động tốt hơn tại những vùng biển nông và tại những môi trường khắc nghiệt nhất trên thế giới.
USS North Dakota có chiều dài 115 m, rộng 10,3 m, trọng lượng giãn nước 7.800 tấn và có khả năng di chuyển với tốc độ 25 hải lý/giờ dưới mặt nước. Ngoài nhiệm vụ trinh sát, tàu ngầm còn thực hiện các nhiệm vụ khác như: tác chiến chống ngầm, đối hạm, cung cấp và yểm trợ các lực lượng đặc biệt, rải thủy lôi… Tàu được trang bị 12 ống phóng tên lửa hành trình Tomahawk UGM-109 và tên lửa Harpoon (có khả năng mang theo 16 quả Tomahawk), 4 ống phóng ngư lôi 533 mm (Mk-48) với 27 ngăn chứa ngư lôi và tên lửa. Ngoài ra, nó còn được trang bị hệ thống đối phó điện tử dò âm AN/WLY-1 và hệ thống tác chiến điện tử AN/BLQ-10 (ESM), để cung cấp cho quá trình xử lý radar dạng tín hiệu quang phổ, cảnh báo tự động và đánh giá tình hình.
Nghiên cứu, thử nghiệm và chạy đua
Tháng 4/2013, Hải quân Mỹ thông báo lực lượng này đã triển khai vũ khí thử nghiệm laser tại vùng Vịnh. Lần đầu tiên các tàu chiến sẽ được trang bị vũ khí tấn công laser có khả năng vô hiệu hóa tàu tuần tra, tung hỏa mù, phá hủy máy bay trinh sát không người lái như các bài thử nghiệm trước đó đã chứng tỏ. Hải quân Mỹ gọi vũ khí mới là Hệ thống vũ khí laser-LAWS. Thế hệ vũ khí tấn công laser đầu tiên sẽ được triển khai trên tàu đổ bộ USS Ponce, được đánh giá là “căn cứ quân sự nổi” của quân đội Mỹ ở vùng Vịnh, với nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động quân sự và hỗ trợ nhân đạo tại khu vực biển Trung Đông và Tây Nam châu Á. Thiết bị tấn công laser sẽ được trang bị cho tàu này trong năm tới. Nhiều thông tin chi tiết về cơ chế hoạt động của loại vũ khí tấn công này như tầm bắn, sức mạnh tiêu diệt và mức độ tiêu hao năng lượng… vẫn được giữ bí mật. Những gì người ta biết được là loại vũ khí này được chế tạo trở thành hệ thống chuyển tiếp có thể tích hợp các công nghệ tấn công mục tiêu và hệ thống lưới điện hiện có trên tàu chiến. Những yếu tố này đã biến laser thành loại vũ khí hiệu quả với giá rẻ đáng ngạc nhiên. Hải quân Mỹ cũng có hệ thống vũ khí khác đang được nghiên cứu với mục tiêu bắn hạ máy bay trinh sát không người lái của đối phương từ trên boong tàu. Tương tự, năm 2011, quân đội Mỹ tuyên bố đang nghiên cứu vũ khí “Kênh Plasma cảm ứng laser” (LIPC) có thể bắn năng lượng cỡ đến 50 tỷ Watt điện năng vào mục tiêu.
Ngày 29/10/2013, máy bay chiến đấu F-35 của tập đoàn Lockheed Martin đã thử bom định vị Unit-12 (GBU-12) được phóng từ trong khoang vũ khí khi đang bay ở độ cao 7.600 m và đã tiêu diệt thành công một chiếc xe tăng trên mặt đất chỉ sau 35 giây. GBU-12 là bom đa năng, có trọng lượng không đầu đạn là 227 kg và sử dụng một đầu dò laser gắn ở mũi cùng các cánh vây điều khiển trên thân để tấn công mục tiêu. Theo phi công bay thử nghiệm của Tập đoàn Marine Richard Rusnok, “bom định vị được thử nghiệm GBU-12 trên F-35 đã đánh dấu một bước đi mới hướng đến sự phát triển của chương trình quan trọng này”. Đây là lần đầu tiên máy bay chiến đấu có thể bắn vũ khí định vị vào một mục tiêu trên mặt đất. Tập đoàn Marine đã có kế hoạch bắt đầu đưa vào sử dụng máy bay này vào giữa năm 2015. Cuộc thử bom GBU-12 diễn ra vào cuối tháng 10/2013 sau vụ thử bắn đạn thật tại căn cứ không quân Edwards với tên lửa đối không tầm trung AIM-12. Việc thử nghiệm khả năng của máy bay F-35 có thể mang và bắn tên lửa GBU-32 với trọng lượng 1000 pound dự kiến sẽ được tiến hành trong tháng 11/2014. Tháng 11/2013, máy bay F-35C đã được thử nghiệm tại căn cứ không quân và hải quân Patuxtent River ở phía Nam bang Maryland cùng với GBU-39 có trọng lượng khá nhỏ, chỉ 130 kg, đường kính gần 190 mm, chiều dài gần 1,8 m. Loại bom này có khả năng tiêu diệt khá chính xác các loại mục tiêu với sai số chu vi xác suất là 5-8 m nhờ bộ định vị dẫn đường GPS. Tuy nhiên, GBU-39 chủ yếu dùng để tiêu diệt các hầm hào, công sự bê tông và các mục tiêu kiên cố. Trái bom này có thể xuyên qua gần 3 m bê tông tiêu chuẩn để đưa một đầu đạn 17 kg vào bên trong. Tầm bay của loại bom này từ máy bay tới mục tiêu có thể lên đến 110 km.
Tập đoàn Lockheed Martin cũng đang triển khai nghiên cứu chế tạo 3 mô hình máy bay chiến đấu chống radar cho quân đội Mỹ và 8 quốc gia khác là: Anh, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Italy, Na Uy, Australia, Đan Mạch, Hà Lan, Israel và Nhật Bản. Kế hoạch can thiệp quân sự vào Syria tạm thời bị hoãn lại, ít nhất là cho đến thời điểm này. Tuy nhiên, giới chỉ huy quân sự Mỹ đánh giá các cuộc xung đột là cơ hội để thử các công nghệ tiên tiến. Dưới đây là những loại vũ khí hay hệ thống mới nhất có thể được sử dụng, từ vũ khí vi sóng đến vũ khí không gian mạng. Lực lượng không quân Mỹ xác nhận còn lưu kho hai hệ thống vũ khí. Đó là bom tấn công thụ động CBU-107 PAW. Loại bom này nặng gần 500 kg, chứa 3700 mũi tên làm bằng thép và vonfram với nhiều kích cỡ khác nhau, từ 30 gr đến gần 0,5 kg, và không chứa chất nổ. CBU-107 sẽ bung và phóng ra các mũi tên này trên không, bên trên khu vực mục tiêu. Cơn mưa tên này chụp xuống một khu vực có đường kính 60 m với vận tốc gần 1.000 km/h. CBU-107 không được thiết kế chuyên biệt cho nhiệm vụ tiêu hủy các vũ khí hoá sinh, để giảm thiệt hại phụ. Nó đã được sử dụng trong Chiến tranh Vùng Vịnh 2 năm 2003, tiêu diệt các ăngten liên lạc đặt trên nóc các toà nhà mà không phải phá sập cả toà nhà. Loại thứ hai là BLU-119/B. Bom này nổ nhanh hơn. Đây là một phiên bản đặc biệt của loại bom đa dụng BLU-117, nặng gần 1 tấn. Ruột bom là sự kết hợp của 65 kg chất nổ và 190 kg chất cháy. Chất nổ sẽ tạo ra sóng xung kích để phát tán chất cháy ra một khu vực lớn trong thời gian rất ngắn. Chất cháy sau đó sẽ bắt cháy và tạo thành một quả cầu lửa bao trùm toàn bộ khu vực mục tiêu cần tiêu diệt với nhiệt độ lên đến 3.300 0 C. Máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Mỹ, F-22 Raptor, vẫn chưa được đưa vào chiến đấu. Theo các quan chức của lực lượng không quân, loại máy bay có công nghệ tàng hình cao này sẽ rất hữu ích trong việc đối phó với hệ thống phòng không tinh vi và tên lửa đối không của Syria .
Các vệ tinh gián điệp từ lâu đã được sử dụng để lần theo vũ khí hủy diệt hàng loạt. Toàn bộ hệ thống vệ tinh đó đều nằm trong sự quản lý của Cục Do thám quốc gia (NRO). Đơn vị này được thành lập ngày 6/9/1961 dưới sự hậu thuẫn của Tổng thống Dwight D. Eisenhower và dựa theo chương trình do thám quốc gia, một bộ phận của Cơ quan Tình báo Mỹ tại nước ngoài. NRO cũng thuộc một nhánh trong Bộ Quốc phòng. Vì vậy, NRO hợp tác chặt chẽ với Cơ quan An ninh quốc gia (NSA), Cục Tình báo Không gian vũ trụ quốc gia (NGA), Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA), Cục Tình báo quân đội (DIA), Bộ Tư lệnh, Phòng thí nghiệm của Hải quân Mỹ và nhiều cơ quan, tổ chức an ninh khác. NRO đóng một vai trò quan trọng đối với chính phủ và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ. Tổng số nhân viên của NRO vào khoảng 3.000 người. Ngoài nhiệm vụ chính là thiết kế, xây dựng và vận hành các vệ tinh do thám do Chính phủ Mỹ chỉ thị, NRO còn thu thập và phân tích các thông tin tình báo tổng hợp từ các máy bay và vệ tinh do thám của Không quân và CIA nhằm cảnh báo các nguy cơ quân sự tại các quốc gia trên thế giới, cung cấp thông tin để xây dựng các kế hoạch quân sự và giám sát môi trường. Thông thường, NRO chịu trách nhiệm về các trạm do thám mặt đất được đặt ở khắp nơi trên thế giới. Từ đây, những thông tin được thu lại và phát đi các quyết định kịp thời, nhằm phục vụ lợi ích của quốc gia. Tháng 9/2013, các chuyên gia của NRO tuyên bố phóng vệ tinh do thám mới nhất vào quỹ đạo nhưng không công bố chi tiết về vệ tinh này. Theo tài liệu mà Edward Snowden, cựu nhân viên NSA, tiết lộ với tờ Washington Post, đó là 2 vệ tinh tối mật hàng đầu có tên là Quasar và Intruder.
Vũ khí vi sóng nhiệt lượng cao có thể tiêu diệt toàn bộ hệ thống máy tính tại Bộ chỉ huy quốc phòng Syria , kiểm soát cơ sở hạ tầng mà không gây bất kỳ thiệt hại vật chất nào khác. Đây là loại vũ khí không gây sát thương với cơ chế phát ra những tia nhiệt nhằm thẳng vào mục tiêu. Những mục tiêu của vũ khí này sẽ bị vô hiệu hóa vì nhiệt độ thay đổi đột ngột cũng như không thể tìm ra nguồn phát của nó. Nếu so sánh giữa loại vũ khí này với cơ chế hoạt động của lò vi sóng, ta có thể thấy được những khác biệt rất lớn. Lò vi sóng có tần số 1 GHz nên mạnh và sóng thâm nhập vào sâu bên trong đối tượng bị chiếu, trong khi đó loại vũ khí này có tần số 90 GHz nên khả năng xuyên thấu chỉ là 0,4 mm. Đó là lí do vũ khí này không biến mục tiêu của mình thành “món thịt hầm”. Năm 2012, Tập đoàn Boeing đã công bố một đoạn băng video về Dự án tên lửa vi sóng nhiệt lượng cao tiên tiến, một loại tên lửa có thể thiêu đốt mục tiêu bên trong bằng việc tăng đột ngột nhiệt độ. Như vậy, lực lượng không quân đã thực hiện hành động bí mật chiếu tia nhiệt vi sóng vào các mục tiêu trong nhiều năm và không nghi ngờ gì, loại vũ khí này hiện đã tồn tại.
Trung Quốc - mối quan tâm chính
Cuộc thử nghiệm vũ khí tấn công chớp nhoáng toàn cầu (PGS) mới nhất của Mỹ đã khiến Nga lo ngại nhưng nước lo ngại nhiều nhất chính là Trung Quốc bởi vì Bắc Kinh có rất ít tên lửa chứa đầu đạn hạt nhân có thể đạt được đến trình độ ngang Mỹ như của Nga, và hệ thống phòng thủ chưa hiệu quả để đối phó với các cuộc tấn công của tên lửa. Trong bài viết trên trang mạng “Tâm điểm Trung Quốc-Mỹ”, Tướng Diêu Vân Trúc, Giám đốc Trung tâm quan hệ quốc phòng Trung Quốc-Mỹ thuộc Học viện quốc phòng Trung Quốc, cho biết sự lo ngại của Bắc Kinh bắt nguồn từ hai sự kiện thực tế sau:
- Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo mà Mỹ và đồng minh đã triển khai, hay dự kiến triển khai ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương có thể đánh chặn đòn tấn công trả đũa bằng vũ khí hạt nhân của Trung Quốc khi nước này bị tấn công. Do đó, có khả năng làm mất tác dụng răn đe của kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc.
- Mỹ đã phát triển hàng loạt vũ khí tấn công chiến lược thông thường. Khi các vũ khí này được triển khai, nó có thể đánh bại kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc.
Hu Yumin, chuyên gia nghiên cứu cấp cao thuộc Hiệp hội kiểm soát vũ khí và giải trừ quân bị, đã viết trong bài phân tích vào tháng 1/2013 rằng việc Mỹ dự tính gắn thiết bị định vị toàn cầu GPS vào tàu vũ trụ và thiết bị chống tên lửa nhằm “hình thành hệ thống phòng thủ tích hợp có thể vô hiệu hóa vũ khí chiến lược của các nước khác (kể cả vũ khí hạt nhân)”. Thực tế rõ ràng Hu Yumin đang ám chỉ đến Trung Quốc. Ông cũng khẳng định kế hoạch trên của Mỹ sẽ đẩy nhiều quốc gia vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan: hoặc họ sẽ mất khả năng phát động một cuộc phản công hạt nhân chiến lược hoặc họ sẽ phải sử dụng vũ khí hạt nhân trước để tránh sự tàn phá.
Tóm lại, thực tế chính Nga và Trung Quốc đang phải tăng cường chi tiêu quốc phòng. Tổng thống Nga Vladimir Putin công khai thừa nhận kế hoạch mở rộng và nâng cấp quân đội Nga. Hàng loạt các biện pháp sẽ được thực hiện. Nga đã bắt tay vào việc tăng cường quân sự. Những chương trình tái trang bị và cải tổ cơ bản lực lượng vũ trang đang được Nga áp dụng và thực hiện. Trong chừng mực nào đó, chính sách này là phù hợp với tình hình thực tiễn quốc tế đang diễn ra. Có nhiều chỉ trích và tuyên truyền liên quan việc cắt giảm ngân sách thường kỳ cho Lầu Năm Góc. Mỹ đang thực hiện một cuộc chơi mới thay đổi vũ khí. Chi phí quốc phòng vẫn chiếm đến 20% tổng ngân sách Nhà Trắng, nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Mỹ là quốc gia chủ chốt quyết định xu hướng thế giới hiện nay và chi tiêu quân sự của nước này chiếm gần một nửa mức chi tiêu quân sự của toàn thế giới, khoảng 40%. Do đó, các quốc gia khác thể hiện sự lo ngại là rất chính đáng và có lý do để áp dụng chính sách quân sự cho phù hợp với thực tế này./.
Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông là chuỗi hội thảo thường niên do Học viện Ngoại giao (DAV) tổ chức, với mục tiêu thúc đẩy đối thoại chuyên sâu, cởi mở và thẳng thắn về những diễn biến đa chiều liên quan đến Biển Đông.
Ngày 1 tháng 7 năm 2022, Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện. Ngày 12 tháng 7 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Viện Biển Đông, trực thuộc Học viện Ngoại giao, là đơn vị chuyên nghiên cứu về các vấn đề bảo vệ biển, đảo,...
Nhằm đẩy mạnh phong trào nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề liên quan đến Biển Đông cũng như tình hình khu vực và thế giới trong sinh viên đang học tập tại các trường đại học, cao đẳng, Quỹ Hỗ trợ Nghiên cứu Biển Đông ban hành Quy định về Chương trình Học bổng Thắp sáng Đam mê Nghiên cứu Biển Đông.
Bất kể lo ngại về cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nước Mỹ dưới Chính quyền Joe Biden thực sự đã “quay lại”.
Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày 28/7 đến ngày 4/8, Cục Hải sự tỉnh Hải Nam và tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) liên tục ra 10 thông báo về các cuộc tập trận quân sự trên biển. Đáng chú ý nhất trong số đó là cuộc tập trận phạm vi lớn nhất trên Biển Đông kéo dài từ ngày 6-10/8. Các chuyên gia của Trung Quốc...