+ RFI - 3/2: Tham vọng biển của Trung Quốc: Nguy cơ chiến tranh khu vực. Tuần san Le Nouvel Observateur số ra tuần này có bài “Cuộc chiến mới trên Thái Bình Dương”, cảnh báo về tình hình căng thẳng trong khu vực mà mấu chốt là tham vọng trở thành cường quốc biển của TQ. Nội dung chính như sau:

TQ muốn bắt chước Mỹ, Anh và Pháp trước kia trở thành cường quốc biển. Nguyên nhân khiến TQ bằng mọi giá phải hướng ra biển, đó là địa thế TQ bị bao bọc xung quanh, từ Bắc chí Nam, từ Nhật Bản đến Indonesia, bởi một vòng vây các quần đảo lớn nhỏ và các vùng nước thuộc lãnh thổ của các nước “đối thủ” thậm chí là “kẻ thù”.

Bắc Kinh đã yêu sách hầu hết lãnh thổ Biển Đông, tức tất cả các hòn đảo mà có khi cách lãnh thổ TQ đến nhiều ngàn cây số. TQ dần tăng cường sự hiện diện ở những khu vực nhạy cảm này. Mặc cho các nước dọc bờ biển phản đối, TQ ngày càng tăng cường sự hiện diện, thậm chí còn đe dọa, ở những vùng nước tranh chấp. Tình hình căng thẳng đến mức mà các nước trong khu vực phải cầu cứu đến LHQ trong việc thực thi các qui định quốc tế về luật biển. Nhiều nước trong số đó đã xích lại gần Mỹ bởi vì đó là nước duy nhất có thể kiềm chế “sự tham lam của TQ”.

Trong bối cảnh đó, TQ tỏ ra “nhắm mắt tai ngơ” trước những phản đối của láng giềng. Và vào tháng 2/2013 này, TQ sẽ tung ra một bản đồ mới về cái gọi là “Đại Trung Hoa”, một hành động sẽ làm cho tình hình thêm căng thẳng.

TQ đã trở thành cường quốc và không còn cần phải che giấu tham vọng lãnh thổ, tham vọng thay đổi bản đồ khu vực kể cả bằng vũ lực. Và tất cả các quốc gia ven biển ở đây đều nằm trong tầm ngắm của TQ. Năm 2012, hải quân TQ đã cắt cáp tàu thăm dò địa chấn của VN, đã cấm Malaysia triển khai tàu địa chấn trong phạm vi đặc quyền kinh tế Malaysia, đã gây xáo trộn hoạt động thăm dò dầu khí ở những vùng nước mà TQ tuyên bố chủ quyền. Từ mùa hè 2012, TQ đã toan làm thay đổi thực trạng pháp lý ở các vùng nước đang tranh chấp với chiêu thức “việc đã rồi”. Tháng 7/2012, TQ đã cho thành lập một đơn vị hành chính ở quần đảo Trường Sa, nơi mà VN tuyên bố chủ quyền.

Nhìn sang biển Hoa Đông, TQ có tranh chấp lãnh thổ với NB ở đảo Senkaku mà phía TQ gọi là Điếu Ngư. Tháng 12/2012, tranh chấp Trung - Nhật đã tiến thêm một bước khi mà một máy bay TQ đã tiến vào không phận của khu vực này. Phía NB xác nhận, đó là vụ “xâm phạm không phận NB” lần đầu tiên kể từ thế chiến thứ hai. Ngoài ra, phía TQ còn thường xuyên gây khó dễ cho tàu cá NB và tàu hải giám của TQ thì cũng hay xâm nhập vào khu vực này.

Tại TQ, dư luận bị hâm nóng bởi sự hiện diện quá nhiều của chủ đề Điếu Ngư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người TQ còn không ngại nói: “Phải cho bọn nhược tiểu NB một bài học”. Nhiều chuyên gia quân sự TQ còn không ngại nói đến khả năng “xung đột vũ trang” giữa hai nước.

Phía NB tỏ ra không nhân nhượng. Tình hình căng thẳng đến mức mà báo giới NB đã nói đến nguy cơ “chiến tranh” giữa hai nước. Chính phủ mới của NB đã tuyên bố không thương lượng về chủ đề Senkaku vì quần đảo này, theo chính phủ NB, hiển nhiên là của NB. Chính phủ Nhật còn vừa tăng ngân sách quốc phòng. Tân Thủ tướng Abe đã dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến 3 nước ASEAN là VN, TL và Indonesia, với mục đích củng cố “mặt trận chống TQ” ở Thái Bình Dương. Ông Abe còn hứa sẽ cung cấp tàu tuần tra bờ biển cho PLP và đào tạo thủy thủ tàu ngầm cho VN.

TQ đã không ngừng phát triển hải quân với mục đích là tạo ra một khu vực an ninh hàng hải bao gồm 3 giai đoạn. Thứ nhất là kiểm soát cho được vùng biển gọi là “dãy đảo thứ nhất” (khu vực biển tiếp giáp các quốc gia đối thủ hay thù địch với TQ như NB, ĐL, PLP, Indonesia và Malaysia), đặc biệt là vùng tiếp giáp với ĐL để ngăn chặn hải quân Mỹ tiến vào cứu đồng minh ĐL khi cần thiết. Thứ hai, TQ đặt mục tiêu trong năm 2020 - 2030 sẽ triển khai hải quân TQ đến những vùng nước mà TQ gọi là “dãy đảo thứ hai”, bao gồm khu vực Mariannes và Guam, mục đích là để so kè với Mỹ ngay trong vùng ảnh hưởng của Washington. Giai đoạn thứ ba, hiện diện ở khắp các đại dương trên thế giới.

Tuy vậy, nguy cơ đến từ TQ không phải là quá lớn. Một quan chức quốc phòng NB cho rằng, dù trong 20 năm qua, ngân sách quốc phòng của TQ đã tăng 18 lần, nhưng hiện tại hải quân TQ vẫn còn thua xa Mỹ, chưa kể là bên cạnh đó còn có các lực lượng hải quân của các nước đồng minh của Mỹ. Hơn nữa, hải quân TQ dù lớn mạnh nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm tác chiến. Trong khi đó, hải quân Nhật lại rất mạnh, nên việc bức phá Senkaku của TQ là việc chưa thể. Thêm vào đó là nội tình rối ren tại TQ với nguy cơ bạo động xã hội đang âm ĩ. Tất cả cho thấy, bản đồ “Đại Trung Hoa” của TQ hiện chỉ là “một giấc mộng trên giấy”.

Về ông Tập Cận Bình, ông này tuần qua đã có lời lẽ khoan hòa với NB. Ông có thật sự muốn vậy hay không ? Sự thật coi chừng ngược lại vì ông Tập là người có thói quen khi nói thì khoan hòa nhưng hành động thì lại khác. Bằng chứng là hồi năm 2011, khi còn là phó chủ tịch, ông Tập đã tiếp nhiều lãnh đạo châu Á và luôn hứa sẽ làm dịu căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ. Khi thăm VN, ông cũng có lời lẽ khoan hòa. Nhưng, những hành động làm cho tình hình thêm phức tạp của phía TQ trong năm 2012 đã cho thấy rõ sự thật của vấn đề.

+ Tin từ Thượng Hải - 5/2: Mạng “Bình luận Trung Quốc” mới đây dẫn nguồn “Kiều báo” (Mỹ) đăng bài viết tựa đề “Tập Cận Bình nói về chiến lược ngoại giao: ‘Giấu mình chờ thời’ có sự điều chỉnh nhỏ”. Nội dung chính như sau:

Cuối tháng 1/2013, tại buổi sinh hoạt chính trị của BCT/ĐCS/TQ, TBT Tập Cận Bình đã lần đầu tiên trình bày một cách hệ thống về quan điểm phát triển hòa bình của TQ, xác định rõ giới hạn nguyên tắc của sự nghiệp phát triển hòa bình. Phát biểu của ông Tập đã nhận được quan tâm cao độ của dư luận trong và ngoài TQ.

Trong bài nói chuyện, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh cần chú trọng xuất phát trên 4 phương diện: nguyện vọng của nhân dân, chiến lược quốc gia, nhu cầu thực tiễn và quy luật lịch sử; chỉ rõ tất yếu lịch sử TQ phải kiên trì đi con đường phát triển hòa bình. Ông Tập cũng nhấn mạnh “bất cứ nước nào cũng không nên trông đợi TQ sẽ mang lợi ích cốt lõi của mình ra giao dịch; TQ sẽ không ăn quả đắng vì tự mình làm tổn hại tới chủ quyền, an ninh, phát triển”.

Truyền thông phương Tây cho rằng, phát biểu của Tập Cận Bình là sự bày tỏ mạnh mẽ của tinh thần chủ nghĩa dân tộc, dường như là một sự ám chỉ “TQ sẽ thể hiện tư thế cứng rắn hơn nữa trên vũ đài quốc tế”; phát biểu này có thể khiến cho một số nước láng giềng của TQ cảm thấy lo ngại và căng thẳng.

Báo chí phương Tây bình luận cho rằng, ông Tập Cận Bình xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng, trưởng thành trong thời kỳ ĐCS/TQ bắt đầu xây dựng chính quyền, thời đại đậm đà màu sắc của hình thái ý thức. Ông Tập đã tận mắt chứng kiến sự bao vây phong tỏa và chính sách thù địch của phương Tây đối với TQ; sau khi tham gia công tác, Tập Cận Bình đã trải qua thời kỳ quan hệ TQ với các nước phương Tây khi hòa hoãn, khi căng thẳng. Bởi vậy sâu bên trong con người Tập Cận Bình cũng mang tư tưởng chủ nghĩa dân tộc, đề cao ý thức tự giác quốc gia dân tộc.

Đồng thời, với tư cách là lực lượng chấp chính, ĐCS/TQ cũng cần phải tích cực tìm kiếm và mở rộng những nguồn lực hiệu quả hơn, củng cố cho nền móng mang tính hợp pháp của mình. Chủ nghĩa dân tộc chính là một phương tiện quan trọng để quy tụ lòng dân, tăng cường địa vị chấp chính; nhấn mạnh một cách vừa phải tinh thần chủ nghĩa dân tộc, đồng thời vận dụng nó một cách thích hợp trong quan hệ đối ngoại thì sẽ mang lại hiệu quả tốt đẹp. Bởi vậy, sau khi đảm nhiệm vị trí TBT/ĐCS, chủ trương chủ nghĩa dân tộc của Tập Cận Bình đã có lúc được thể hiện.

Ban lãnh đạo khóa mới của TQ nhanh chóng nêu ra chiến lược tổng thể về đối ngoại và các giới hạn nguyên tắc trước thềm diễn ra hội nghị “Lưỡng hội”, là bởi vì môi trường ngoại giao láng giềng của TQ đang ngày càng phức tạp, cọ sát và mâu thuẫn ngày một gia tăng. Ban lãnh đạo khóa mới của TQ, với người đứng đầu là Tập Cận Bình, sẽ thể hiện một tư thế tích cực và chủ động hơn nữa trong quan hệ đối ngoại, thậm chí có thể tỏ ra cứng rắn một cách vừa phải.

Tập Cận Bình trong chuyến thị sát quân đội gần đây đã nhấn mạnh quân đội cần chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, cho thấy phát biểu về chiến lược ngoại giao vừa qua của Tập Cận Bình cũng sẽ được quán triệt tới quân đội và vận dụng vào quan hệ ngoại giao quân sự. Những nước láng giềng lâu nay vẫn phớt lờ lợi ích quốc gia của TQ hoặc cố ý gây hấn với TQ như PLP, VN, NB nay cũng cần phải cân nhắc kỹ hậu quả có thể sẽ phải gánh chịu, đặc biệt nếu như chạm đến giới hạn cuối cùng của TQ mà ngoan cố không lùi bước, sẽ không loại trừ khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh cục bộ quy mô vừa hoặc một vụ xung đột vũ trang chớp nhoáng.

Tuy nhiên, là một nhà lãnh đạo của một nước lớn đang phát triển, Tập Cận Bình cũng cần phải cân nhắc đến sự cân bằng và ổn định đại cục trong chiến lược ngoại giao, tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự phát triển của TQ, đây vẫn là mục tiêu theo đuổi quan trọng nhất của ngoại giao TQ hiện nay. Bởi vậy động thái ngoại giao cứng rắn vẫn là lựa chọn chiến lược sau cùng, là sách lược bất đắc dĩ. Nói theo cách khác, phương châm chiến lược cơ bản “giấu mình chờ thời” sẽ tiếp tục được TQ duy trì, nhưng khi đối diện với những tình huống cụ thể TQ sẽ có sự điều chỉnh linh hoạt ở mức vừa phải, có thể bao gồm cả việc đưa ra phản ứng ngoại giao cứng rắn, thậm chí là phản ứng quân sự nếu hoàn cảnh bắt buộc.

Mạng Trung Hoa (china.com) ngày 5/2 đăng bài “Hơn 2 tháng sau khi tiếp nhận chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Tập Cận Bình đã thị sát khắp các quân chủng”:

Đầu tháng 2/2013, tân TBT - CT Quân ủy Trung ương TQ Tập Cận Bình trong chuyến công tác tại Cam Túc đã tới thị sát căn cứ không quân đóng sâu tại sa mạc Gobi, gặp gỡ cán bộ sỹ quan Quân khu Lan Châu. Như vậy cho đến thời điểm hơn 2 tháng sau khi tiếp nhận chức vụ CT Quân ủy Trung ương, Tập Cận Bình đã hoàn thành việc thị sát đối với tất cả các quân binh chủng, bao gồm hải quân, lục quân, không quân, bộ đội tên lửa và bộ đội vũ cảnh.

- Trung tuần tháng 11/2012: Tập Cận Bình được bầu làm Chủ tịch Quân ủy.

- Ngày 5/12/2012: Gặp gỡ đại biểu đảng bộ Quân chủng Pháo binh số 2; phát biểu nhấn mạnh quyết tâm xây dựng lực lượng tên lửa chiến lược hùng mạnh với trình độ tin học hóa cao.

- Ngày 8 - 10/12/2012: Thị sát Hạm đội Nam Hải và thăm một tập đoàn quân thuộc Quân khu Quảng Châu; phát biểu “Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa là giấc mộng cường quốc, cũng là giấc mộng cường quân”.

- Ngày 29/01: Thị sát Tổng bộ lực lượng Vũ cảnh; phát biểu nhấn mạnh “cần tuyệt đối trung thành, duy trì ổn định cần nắm chắc cây gậy chủ động”

- Ngày 2 - 4/2: Thị sát căn cứ không quân và thăm quân khu Lan Châu; phát biểu nhấn mạnh “thúc đẩy xây dựng tin học hóa, làm tốt công tác nắm bắt cơ sở, xây dựng cơ sở”.

Ngoài ra, trong hơn 2 tháng qua Tập Cận Bình cũng đã tham gia nhiều hoạt động khác thuộc lĩnh vực công tác quân vụ như: tham dự hội nghị mở rộng của quân ủy, ký lệnh ghi công, dự liên hoan văn nghệ quân dân chào đón năm mới...

Bình luận về các hoạt động của CT Quân ủy Trung ương Tập Cận Bình, báo chí TQ Đại lục và Hồng Kông cho rằng, TW/ĐCS/TQ đang cho thấy sự quan tâm, coi trọng cao độ đối với công tác xây dựng quân đội, xây dựng quốc phòng. Tờ “Văn Hối” (Hồng Kông) nhận xét, việc Tập Cận Bình thị sát căn cứ không quân đóng tại sa mạc Gobi, cùng đi có tướng Hứa Kỳ Lượng - người vốn xuất thân là bộ đội không quân, là tín hiệu cho thấy Quân ủy TW/TQ rất coi trọng phát triển lực lượng không quân.

Động lực đằng sau giấc mơ Trung Quốc (Nhân dân Nhật báo - 5/2):

Giấc mơ TQ đã nhanh chóng trở thành từ thường xuyên được nhắc tới kể từ khi giới lãnh đạo TW/TQ nắm quyền vào tháng 11/2012. Tuy nhiên, câu hỏi chính vẫn cần trả lời là “liệu cụm giấc mơ TQ có được chấp thuận rộng rãi trên toàn bộ TQ không.

Để đạt được đồng thuận, TQ trước hết cần xem xét các động lực đằng sau giấc mơ đó. Thí dụ, châu Âu đã bị chiến tranh thế giới thứ 2 tàn phá nhưng vẫn có 3 động lực mạnh mẽ sau chiến tranh: (1) Nhất thể hoá châu Âu; (2) thúc đẩy phục hồi kinh tế toàn diện và (3) Giảm thiểu nguy cơ chiến tranh Lạnh.

Châu Âu đã mất động lực sau những năm 1990 bởi Liên Xô cũ sụp đổ, nhưng sau đó kinh tế châu Âu phục hồi và liên minh châu Âu được hình thành. Tuy nhiên, hiện nay châu Âu đang bị che phủ bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu kể từ 2008.

Hiện TQ có 3 động lực chính đằng sau “giấc mơ TQ”: (1) Theo đuổi sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống và tiến bộ xã hội cũng như môi trường; (2) Theo đuổi sự công bằng và công lý, dân chủ và hiến pháp, tăng trưởng dân sự, thịnh vượng văn hoá, tiến bộ giáo dục và đổi mới công nghệ. (3) Theo đuổi sự thịnh vượng quốc gia, vị thế dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, đoàn kết dân tộc và hoà bình thế giới. Trên cơ sở 3 động lực chính này, công dân, các nhóm và giới lãnh đạo TQ cần nỗ lực lớn để tìm đồng thuận về ý nghĩa thực sự của giấc mơ TQ.

Một so sánh về giấc mơ TQ và giấc mơ Mỹ có thể đem lại một số nhận xét: giấc mơ Mỹ ẩn ý cơ hội đối với người Mỹ trong việc đạt được sự thịnh vượng thông qua lao động chăm chỉ bất chấp nền tảng của họ. Tuy nhiên, giấc mơ TQ lại ủng hộ việc đặt điều tốt hơn và lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân, phản ánh chủ nghĩa tập thể truyền thống của phương Đông.

+ Tin từ Trung Quốc - 5/2: Mạng Nhân dân ngày 5/2 đưa tin, ngày 4/2, Bộ Tổng tham mưu cùng với các ban ngành hữu quan của cơ quan quốc gia đã tiến hành tọa đàm về vấn đề tăng cường đấu tranh trên biển và hợp tác an ninh trên biển.

Phó Tổng tham mưu trưởng của quân giải phóng, Thích Kiến Quốc phát biểu nhấn mạnh TQ quyết không khơi dậy tranh chấp và xung đột trên biển, quyết không tạo ra sự uy hiếp về an ninh đối với bất kỳ quốc gia nào, quyết không làm ảnh hưởng đến tự do hàng hải mà luật pháp quốc tế đã thừa nhận; cũng cần kiên định không suy chuyển đối với việc bảo vệ sự toàn vẹn của chủ quyền, lãnh thổ quốc gia và quyền lợi biển. Một chút lợi ích cốt lõi của quốc gia cũng không để tổn thất, một phần chủ quyền quốc gia cũng không thể mất, một tấc lãnh thổ quốc gia cũng không thể thiếu.

Bởi vậy vừa phải dựa vào quyết tâm và ý chí, cũng vừa phải dựa vào thực lực và sự chuẩn bị. Bất cứ quốc gia nào cũng không thể đánh giá thấp ý chí kiên cường bảo vệ chủ quyền quốc gia của dân tộc Trung Hoa, cũng không thể đánh giá thấp quyết tâm kiên định bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Chính phủ TQ, cũng không thể đánh giá thấp lực lượng kiên cường bảo vệ lợi ích cốt lõi quốc gia của quân đội nhân dân.

NĂM 2013, Biển Đông (BIỂN ĐÔNG) NHẤT ĐỊNH SẼ CÀNG VẨN ĐỤC (Bài của Thành Hán Bình đăng trên Tạp chí Tri thức Thế giới - Trung Quốc)

Năm 2013, cùng với việc đẩy nhanh bước dịch chuyển về phía Đông của Mỹ, nhân vật phái diều hâu của NB Abe nhậm chức Thủ tướng và ASEAN trong năm 2013 đón tổng thư ký mới, sự giao lưu giữa Mỹ, NB và một số nước yêu sách ở Biển Đông sẽ càng thêm mật thiết, càng nhiều hơn. Một số quốc gia yêu sách đối với Biển Đông sẽ lợi dụng thời cơ này để không ngừng tiến hành các hành động quấy rối, khiêu khích TQ trên biển. Không khó để tưởng tượng, dưới tác động tổng hợp của các nhân tố nói trên, nước Biển Đông sẽ càng bị khuấy đục hơn.

Mỹ: Đẩy nhanh bước dịch chuyển chiến lược về phía Đông. Sau khi Obama thắng cử nhiệm kỳ 2 đã ngay lập tức đi thăm 3 quốc gia Đông Nam Á, điều này có ý nghĩa chiến lược “Tái cân bằng CÁ - TBD” trong chiến lược dịch chuyển hướng Đông của Mỹ bước vào giai đoạn mới. “Biển Nam Trung Hoa” sẽ là điểm can dự và khu vực thí nghiệm tốt nhất cho chiến lược dịch chuyển về hướng Đông của Mỹ. Biển Đông có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với Mỹ, Mỹ tạm thời hạ thấp giọng điệu nhưng vẫn cân nhắc mọi mặt, vừa để tránh đối đầu trực tiếp với TQ, đồng thời tránh bộc lộ ý đồ thực sự của mình.

Nhật Bản: muốn lấy vấn đề Biển Đông để giam chân vấn đề đảo Điếu Ngư. Sau khi TTg Abe của NB nhậm chức đã lập tức gọi điện thoại cho Obama, muốn quan hệ tốt với Mỹ, ngầm tỏ ý muốn làm tiên phong của Mỹ trong việc kiềm chế TQ, đối với Mỹ mà nói việc Abe trở thành Thủ tướng trúng với ý của Mỹ. Thực tế, hai nước Mỹ và Nhật đều có tính toán của mình. Mỹ hoan nghênh Abe và Đảng Dân chủ Tự do nắm chính quyền, hy vọng trong tình trạng Mỹ đang thắt chặt chi tiêu quốc phòng, Tokyo có thể đảm nhiệm trách nhiệm an ninh lớn hơn. NB thì hy vọng đưa đảo Điếu Ngư vào phạm vi bảo vệ của “Điều ước an ninh Nhật, Mỹ”, cáo giả oai hùm. Gần đây, Đại sứ NB tại PLP cho biết, NB có “lợi ích” tại Biển Đông, kêu gọi xây dựng COC để ràng buộc các nước yêu sách. Sau khi Abe nhậm chức đã gọi điện thoại cho TTg VN Nguyễn Tấn Dũng, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc xây dựng quan hệ đối tác chiến lược Nhật - Việt…

Ấn Độ: Từ “hướng về phía Đông” chuyển sang “dính líu ở phía Đông”. Cuối năm 2012, Thủ đô New Deli của ẤĐ tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ẤĐ - ASEAN, ẤĐ và lãnh đạo 10 nước Đông Nam Á đồng ý nâng quan hệ song phương thành quan hệ “đối tác chiến lược”, nội dung cốt lõi trong đó bao gồm nội dung mẫn cảm như: hợp tác an ninh trên biển…, việc hợp tác về an ninh trên biển giữa ẤĐ với ASEAN rõ ràng là có ý muốn tranh giành quyền lợi ở Biển Đông. ẤĐ tuyên bố, Hải quân ẤĐ sẽ tiến vào biển “Nam Trung Hoa” để bảo vệ lợi ích kinh tế về dầu mỏ và khí đốt của ẤĐ. Trước đó, ẤĐ đã tham gia thăm dò lô 127, 128 mà VN mời thầu, điều này có nghĩa là chiến lược hướng Đông của ẤĐ đã biến thành dính líu ở phía Đông.

ASEAN: Tân Tổng Thư ký ASEAN đến từ Việt Nam. Tháng 11/2012, các nhà lãnh đạo ASEAN đã chính thức phê chuẩn Thứ trưởng BNG/VN, Lê Lương Minh là TTK của ASEAN, nhiệm kỳ 5 năm. Vào năm 2010 khi VN là Chủ tịch luân phiên ASEAN đã không ngừng nêu ra vấn đề Biển Đông, đồng thời tích cực giao lưu cùng các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, ý đồ hình thành cục thế “nhiều đấu một” trong vấn đề có liên quan đến tranh chấp Biển Đông, cho nên không loại trừ việc Lê Lương Minh trở thành TTK/ASEAN sẽ làm cục diện Biển Đông phức tạp hóa hơn nữa. Lê Lương Minh khi lên nhậm chức đã cho biết sẽ nỗ lực cho việc xây dựng cộng đồng chung ASEAN với an ninh chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội là 3 trụ cột. Để triển khai có hiệu quả các kế hoạch ưu tiên, ASEAN nhất thiết phải tạo được môi trường hòa bình, ổn định. Đối với tình hình cục diện tranh chấp chủ quyền Biển Đông ngày càng phức tạp, việc các bên có liên quan tuân thủ và thực hiện DOC, nhanh chóng soạn thảo COC là cực kỳ quan trọng.

Việt Nam: Luật Biển bắt đầu có hiệu lực. Từ tháng 1/2013, Luật Biển Việt Nam chính thức có hiệu lực. Đây là lần đầu tiên Chính quyền VN sử dụng hình thức lập pháp để đưa “quần đảo Tây Sa” và “quần đảo Nam Sa” của TQ nằm trong phạm vi của cái gọi là “chủ quyền” và “quản hạt” của VN. Luật Biển VN là bộ luật đầu tiên của VN quy định rõ ràng có chủ quyền đối với Biển Đông, đồng thời với việc phân định phạm vi chủ quyền trên biển, còn quy định rõ phạm vi và căn cứ chấp pháp. Dựa theo luật này, hễ phát hiện tàu cá nước ngoài tiến vào vùng biển nêu trên hoặc tiến hành đánh bắt cá, có thể “dựa vào luật” để tạm giữ hoặc bắt. Việc này uy hiếp không nhỏ đối với ngư dân TQ, từ nhiều thế hệ nay họ đã tác nghiệp đánh bắt ở các vùng biển như: Vịnh Bắc Bộ…, những vùng biển này từ trước tới nay là phạm vi lãnh hải và ngư trường truyền thống của TQ. Ngoài ra, VN đơn phương thông qua “Luật Biển” xác định cái gọi là “chủ quyền trên biển”, đồng thời thực hiện đấu thầu khai thác dầu khí trên biển rộng khắp, bởi vậy, trong quá trình thực hiện tất phải phát sinh va chạm quyết liệt hơn với TQ.

Về mặt chấp pháp trên biển, sau khi “Điều lệ quản lý trị an biên phòng ven biển tỉnh Hải Nam” ban hành, VN lập tức tuyên bố bắt đầu từ ngày 25/1/2013 bố trí tàu kiểm ngư tiến hành tuần tra, tàu công vụ VN có quyền ngăn trở tàu nước ngoài tác nghiệp phi pháp trong “vùng biển của VN” để đối chọi gay gắt với TQ. Lâu dài mà nói, VN luôn có ý thông qua việc hoàn thiện các luật trong nước bao gồm cả “Luật Biển”, làm cho tranh chấp lãnh thổ với TQ hợp pháp hóa, giành được sự ủng hộ của dư luận quốc tế, đặc biệt là thu hút sự tham gia và can dự của một số nước lớn ngoài khu vực có ý đồ xấu, hình thành sự tác động qua lại về chiến lược với VN. “Luật Biển” của VN đã đề cập rõ ràng đến việc tôn trọng và bảo vệ các quyền lợi như: thăm dò, hợp tác khai thác, thi công và nghiên cứu khoa học… trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN của tổ chức nước ngoài, công ty và cá nhân. Một mặt hy vọng thông qua phương thức “trói buộc lợi ích” để cùng với bên thứ ba thực hiện “cùng thắng”, mặt khác là để tạo môi trường pháp lý cho việc quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, đạt được mục đích cùng đối phó với TQ trên biển. Đương nhiên, mục đích hiểm ác hơn của “Luật Biển Việt Nam” là khi tranh chấp trên biển giữa VN và TQ trở nên gay gắt, VN lấy luật này làm căn cứ, đưa lên Tòa án Luật biển quốc tế để kiện, tiến thêm một bước trong việc quốc tế hóa tranh chấp. Gần đây, ở VN hễ có sóng gió nổi lên là trong nước xuất hiện hành vi bài Hoa như: biểu tình thị uy, bao vây Tổng lãnh sự quán tại VN… các sự kiện hộ chiếu, trò chơi mạng (trò Chinh Đồ bản 2.0)… đều như vậy, thậm chí còn thành lập đội bóng đá phản Hoa.

Philippines: Các chuyện mờ ám sẽ càng nhiều. Tỉnh Hải Nam ngày 27/1/2013 thông qua “Điều lệ quản lý trị an biên phòng tỉnh Hải Nam” mới sửa đổi, quy định rõ ràng: đối với tàu thuyền nước ngoài phi pháp đi vào vùng biển do tỉnh Hải Nam quản hạt, cơ quan công an biên phòng có thể áp dụng các biện pháp xử lý như: lên tàu, kiểm tra, bắt giữ hoặc xua đuổi. Quy định này đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Sau đó, tàu hải tuần 21 đã chính thức được đưa vào biên chế Cục Hải sự Hải Nam, phụ trách nhiệm vụ tuần tra chấp pháp Biển Đông.

Đối với hành động tuần tra chấp pháp trên biển của TQ, PLP làm to chuyện, NFN/BNG/PLP tuyên bố, PLP kịch liệt phản đối tàu tuần tra TQ đi lại ở “vùng biển Tây PLP”. NFN/BNG/PLP còn tuyên bố hy vọng NB có thể đóng vai trò trợ giúp trong quá trình giải quyết hòa bình tranh chấp về chủ quyền biển Nam Trung Hoa; PLP hy vọng hình thành quan hệ đối tác an ninh với Nhật, PLP cho biết, không có một quốc gia đơn độc nào có thể có năng lực giải quyết vấn đề an ninh khu vực, việc liên minh với cường quốc có lợi cho lợi ích quốc gia của PLP. Đồng thời, NT/PLP Rosario khi trả lời phỏng vấn thời báo Financial Times của Anh đã cho biết, NB “có thể trở thành một nhân tố cân bằng quan trọng”. Có thể dự báo, năm nay PLP sẽ càng có nhiều hành động mờ ám. (i) PLP lấy “Hiệp định giao lưu quân sự” và “Hiệp định phòng vệ chung” để cùng với Mỹ triển khai nhiều cuộc diễn tập chung ở Biển Đông, đồng thời mở rộng việc tham gia diễn tập đối với các nước như: NB, Australia, VN…, thậm chí không loại trừ khả năng cho Mỹ đóng quân luân phiên; (ii) qua lại tích cực với các quốc gia yêu sách khác, ý đồ hình thành liên minh nhỏ của khu vực Đông Nam Á để đẩy mạnh khái niệm chủ quyền đối với Biển Đông; (iii) muốn lấy sức mạnh quân đội để khoe “cơ bắp”, PLP một mặt mua vũ khí với số lượng lớn, mặt khác tăng binh sỹ ở Biển Đông. Bắt đầu từ tháng 10/2012, PLP đã bắt đầu bố trí hải quân lục chiến ở trên 9 đảo và bãi cạn, số lượng quân đồn trú ở một số đảo đã tăng gấp đôi.

Brunei: Trở thành Chủ tịch ASEAN. Bắt đầu từ năm 2013, Brunei đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên của ASEAN, theo Hiến chương ASEAN, trách nhiệm của nước Chủ tịch ASEAN bao gồm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Đông Nam Á và Hội nghị cấp Bộ trưởng và quan chức cấp cao, đồng thời lãnh đạo Hội đồng Điều phối ASEAN, Ba Hội đồng cộng đồng ASEAN và Ủy ban các đại diện thường trực ASEAN. Do Brunei và TQ tồn tại tranh chấp lãnh thổ, bởi vậy đối với việc xử lý các vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông, sự lựa chọn của Brunei rất quan trọng. CPC trong thời gian đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN đã bảo vệ rất tốt đại cục quan hệ song phương ASEAN - TQ và lợi ích của toàn bộ ASEAN, áp chế được một số “tạp âm”.

Để chiếm lợi thế, VN và PLP trong năm 2012 đã bắt đầu “tác động” Brunei, mời Brunei tham dự việc tuần tra phòng vệ trên biển ở Biển Đông và Hội nghị 4 bên Biển Đông, mưu đồ thao túng lập trường của Brunei trong vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông.

PLP trong năm 2012 đã từng mời VN, Brunei và Malaysia tham dự Hội nghị 4 bên Biển Đông, ý muốn tách TQ ra. Tuy nhiên, do hai nước Malaysia và Brunei không tham dự dẫn đến hội nghị đổ vỡ nhưng không loại trừ khả năng hội nghị này sẽ tổ chức, đặc biệt là tổ chức trong bối cảnh Brunei làm chủ tịch luân phiên của ASEAN. NT/PLP tuyên bố, các bên đang “nỗ lực xác định thời gian hội đàm mới”.