Đặt vấn đề

Tham vọng và mục tiêu chính của ASEAN từ khi thành lập cho tới nay là muốn tạo dựng một môi trường hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á để từ đó góp phần giúp các nước thành viên giữ vững độc lập chủ quyền và phát triển bền vững. Điều này được thể hiện rõ nét trong hầu hết các văn kiện của ASEAN, nhất là trong bản Hiến chương ASEAN đã đi vào cuộc sống từ  tháng 12 nam 2008. Hơn nữa, việc ngăn ngừa, hòa giải và quản lý xung đột là một trong những nội dung, thành tố chính cấu thành Cộng đồng Chính trị - an ninh ASEAN (APSC). Như vậy, tham gia giải quyết tranh chấp, xung đột ở Biển Đông thuộc pham vi hoạt động, là trách nhiệm và lợi ích của tổ chức này.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chủ yếu đề cập tới 3 nội dung  chính; 1) Tại sao ASEAN tham gia giải quyết tranh chấp Biển Đông; 2) Sự tham gia của ASEAN vào vấn đề này như thế, những thành công và hạn chế; 3) ASEAN tiếp tục phải làm gì để thể hiện vai trò của mình như một trung tâm, động lực hòa giải tranh chấp đang leo thang nhanh tại vùng biển  này.

1. Lợi ích của ASEAN trong tham gia giải quyết tranh chấp ở Biển Đông

Trong số 6 nước 7 bên có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông, thì có 5 nước ASEAN là Việt Nam, Philippin, Malaysia, Brunei và Indonesia có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Còn các nước khác như Singapore, Thái Lan và Campuchia cũng là những nước nằm trên bờ Biển Đông, đều chia sẻ lợi ích to lớn cả kinh tế và chiến lược, nhất là trong tự do thương mại và an ninh quốc phòng. Ngay cả Myanma, nước không nằm trên bờ Biển Đông, nhưng Biển Đông là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho nước này trong phát triển quan hệ với các nước trên bờ Thái Bình Dương. Khi mà tuyến Hành lang Kinh tế Đông Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng trở nên thuận tiện, thì lợi ích của Myanma sẽ được nhân lên nhiều lần. Các nước không có biển như Lào cũng sẽ hưởng lợi lớn trong sử dụng lợi thế chiến lược của Biển Đông.

Như vậy tranh chấp biển Đông leo thang không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia-dân tộc của các nước ASEAN có chủ quyền ở vùng biển này, mà làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của ASEAN, nhất là quan hệ của ASEAN và các nước thành viên với các đối tác bên ngoài, trước hết là với Trung Quốc. Các nước Đông Nam Á, nhất là các nước có yêu sách đòi chủ quyền, dù muốn, dù không phải chi phí nhiều hơn cho quốc phòng. Điều này không chỉ làm tổn hại đến đầu tư phát triển kinh tế, mà còn làm tăng mối nghi kỵ, lo ngại về an ninh do xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng nhanh.

Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là ASEAN đang nỗ lực hiện thực hóa cộng đồng của mình, trong đó có APSC vào 2015. Những nội dung và phương thức xây dựng APSC như “Xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử” và hợp tác, tìm kiếm và thiết lập các định chế để “Ngăn ngừa xung đột” trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài được xác định rõ trong Kế hoạch hành động ASC năm 2004 và trong Kế hoạch Tổng thể APSC năm 2009. Như vậy việc tham gia hòa giải mâu thuận, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN. Sự thiếu đoàn kết, nhất trí về một lập trường chung và phản ứng cầm chừng của ASEAN và một số nước thành viên trong việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết ở cấp độ khu vực và toàn cầu liên quan đến Biển Đông (như DOC, UNCLOS) cũng như chậm trễ soạn thảo và ban hành COC đã và đang cảm trở lớn đến hiện thực hóa APSC.

Ngoài ra, việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò Trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương của mình ở Châu Á-Thái Bình Dương, nhất là vai trò của ASEAN trong ARF, EAS và ADMM +. Điều này sẽ làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời việc làm này cũng làm tăng sức hút, sự hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cơ chế hợp tác đa phương ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Như vậy sự tham gia của ASEAN vào hòa giải mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông cùng một lúc đã đạt được hai mục đích: Một là góp phần quan trọng hiện thực hóa APSC; hai là, tránh cho ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy hay tâm điểm của cạnh tranh địa chính trị của các cường quyền, duy trì vai trò trung tâm của mình trong một cấu trúc khu vực mới đang hình thành. Hơn nữa, sự tham gia của ASEAN còn góp phần làm cho các nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc giảm cạnh tranh chiến lược ở khu vực này, làm cho phần hợp tác cùng chia sẻ lợi ích giữa họ tăng lên[1]. Điều này sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia-dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng, không bị các nước lớn lôi kéo vào vòng xoáy của cạnh tranh quyền lực. Có thể nói, sự tham gia trên đối với ASEAN vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này. Đây cũng là phép thử  mới đối với hiện thực hóa  APSC cũng như  đối với chiến lược tranh giành kiểm soát địa chính trị tại khu vực này giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc.

PGS. TSKH. Trần Khánh, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á

Đọc toàn bộ bài viết tại đây.

 

CHÚ THÍCH


[1]  Xem thêm: Trần Khánh. Tranh chấp Biển Đông nhìn từ góc độ địa chính trị//Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 2, 2012.