29/03/2010
Trang mạng tiếng Việt www.tapchithoidai.org vừa đăng tải bài viết của Hồ Bạch Thảo phân tích về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với nhan đề: "Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) có được nói đến như là đất Trung Quốc trong Thanh Sử Cảo và Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ không?" Sau đây là những nội dung chính của bài viết:
Ðọc những lời tranh cãi về chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc thường đưa những chứng cớ vu vơ về lịch sử, qua những tài liệu không đáng tin cậy. Lý do là bởi trong thời gian dài gần cả ngàn năm, bờ biển Trung Quốc thường bị khống chế bởi Nhật Bản hoặc các nước phương Tây, triều đình nước này lo phòng thủ cũng đã đủ mệt mỏi, nên không còn thời gian để nhòm ngó và thực hiện chủ quyền tại các hải đảo ngoài biển. Bởi vậy, không có bằng chứng xác đáng trong chính sử Trung Quốc là nước này đã xác định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, và thời gian qua để biện minh cho thế đứng của mình trong tranh chấp, Trung Quốc đã đưa ra những lời nói vu vơ thiếu căn cứ để làm bằng chứng cho chủ quyền của mình ở phần đất họ chưa bao giờ làm chủ. Trung Quốc thường dùng các bản tường trình hoặc du ký của người Trung Quốc, và những bản đồ vẽ thế giới quanh họ thường có tên là thiên hạ toàn đồ, tất nhiên là những bản đồ có vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chứng minh hai vùng này thuộc Trung Quốc. Điều này chẳng khác gì nói Nhật Bản, Việt Nam , Lào, Thái Lan v.v. cũng là đất Trung Quốc. Chống lại luận điệu này, tôi (Hồ Bạch Thảo) đã dựa vào chính sử Trung Quốc để xem xét bằng chứng. Theo cách làm việc này, qua bài Lãnh hải Trung Quốc dưới thời nhà Minh, tôi đã cố gắng tìm kiếm các địa danh Tây Sa, Nam Sa trong Minh Sử nhưng không thấy.
Bài này tiếp tục dò xuống đời Thanh, là thời gần với thời hiện đại nhất, phản ánh rõ địa lý mà sử sách và bản đồ Trung Quốc coi là vùng đất thuộc cương vực Trung Quốc, tất nhiên là không bao gồm các quốc gia độc lập khác mà thường phải cống nộp lấy lệ cho Trung Quốc để tránh Trung Quốc mượn cớ gây chiến. Cần lưu ý là các bản đồ khác mang tên đại loại như “thiên hạ toàn đồ” hay các tên tương tự là bản đồ thế giới hoặc bản đồ bao gồm cả Trung Quốc và các nước xung quanh được Trung Quốc coi là chư hầu hay bản đồ ghi lại các chuyến du hành. Những bản đồ này không thể coi là bản đồ Trung Quốc nhưng đã được một số học giả dùng để chứng minh là Tây Sa và Nam Sa đã được vẽ vào bản đồ Trung Quốc.
Bài viết thực hiện qua việc đọc bộ chính sử viết về thời này nhan đề là Thanh Sử Cảo để tham khảo. Tại Trung Quốc, Tống Sử được soạn vào đời Nguyên, Nguyên Sử soạn vào triều Minh, Minh Sử soạn vào triều Thanh, rồi đến Thanh Sử được soạn vào thời Dân Quốc. Vào thời đầu Dân quốc năm 1914 cho lập Quốc Sử Quán, cử Triệu Nhĩ Tốn làm Quán trưởng, bắt đầu biên soạn Thanh Sử. Trải qua hàng chục năm mới hoàn thành, đây là bộ sử đồ sộ gồm 536 quyển, tài liệu rất phong phú, nên các học giả mệnh danh là 1 trong 25 bộ sử của Trung Quốc (Nhị thập Ngũ Sử), riêng phần địa lý gồm 28 quyển. Phải nói địa lý hành chính trong bộ sử này chép khá kỹ, mỗi tỉnh chia rõ ràng từng phủ, huyện; về khoảng cách và phương hướng tính từ huyện, châu đến phủ, hoặc từ phủ lỵ đến tỉnh lỵ. Qua sự tìm hiểu 28 quyển địa lý trong bộ sử, không hề thấy địa danh các quần đảo có tên là Tây Sa, Nam Sa.
Tham khảo thêm, chúng tôi đã sử dụng Ðại Thanh Nhất Thống Toàn Ðồ của Thư viện Quốc gia Ôxtrâylia để xác minh thêm Thanh Sử Cảo.
Trước tiên nói về Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, gồm 21 phần, xin liệt kê như sau:
- Phần 1: Ðại Thanh nhất thống toàn đồ (Bản đồ toàn thể nước Ðại Thanh)
- Phần 2: Ðịa Cầu chính điện toàn đồ (Bản đồ mặt chính của quả Ðịa cầu)
- Phần 3: Ðịa Cầu bối diện toàn đồ (Bản đồ mặt sau của quả Ðịa cầu)
- Phần 4: Thịnh kinh toàn đồ (Bản đồ kinh sư phồn thịnh)
- Phần 5: Trực Lệ toàn đồ (Bản đồ tỉnh Trực Lệ)
- Phần 6: Sơn Tây toàn đồ (Bản đồ tỉnh Sơn Tây)
- Phần 7: Sơn Ðông toàn đồ (Bản đồ tỉnh Sơn Ðông)
- Phần 8: Giang Nam toàn đồ (Bản đồ vùng Giang Nam )
- Phần 9: Chiết Giang toàn đồ (Bản đồ tỉnh Chiết Giang)
- Phần 10: Giang Tây toàn đồ (Bản đồ tỉnh Giang Tây)
- Phần 11: Phúc Kiến toàn đồ (Bản đồ tỉnh Phúc Kiến)
- Phần 12: Quảng Ðông toàn đồ (Bản đồ tỉnh Quảng Ðông)
- Phần 13: Quảng Tây toàn đồ (Bản đồ tỉnh Quảng Tây)
- Phần 14: Hà Nam toàn đồ (Bản đồ tỉnh Hà Nam )
- Phần 15: Hồ Nam toàn đồ (Bản đồ tỉnh Hồ Nam )
- Phần 16: Hồ Bắc toàn đồ (Bản đồ tỉnh Hồ Bắc)
- Phần 17: Tứ Xuyên toàn đồ (Bản đồ tỉnh Tứ Xuyên)
- Phần 18: Vân Nam toàn đồ (Bản đồ tỉnh Vân Nam )
- Phần 19: Quí Châu toàn đồ (Bản đồ tỉnh Quí Châu)
- Phần 20: Thiểm Tây toàn đồ (Bản đồ tỉnh Thiểm Tây)
- Phần 21: Cam Túc toàn đồ (Bản đồ tỉnh Cam Túc)
Bản đồ không ngày tháng biên soạn và được Thư viện Quốc gia Ôxtrâylia đánh giá là xuất bản vào khoảng 1800-1899, nhưng qua phần 2 và 3 thể hiện trái đất là một khối cầu, có phân biệt hai cực Bắc, Nam; chứng tỏ nhà biên soạn từng tham khảo môn địa lý phương Tây. Ðiều này chỉ có thể xảy ra dưới thời Quang Tự [1875- 1908] hoặc sau đó, lúc này phong trào cải cách của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu nhiệt liệt cổ động nghiên cứu học thuật phương Tây, Trung Quốc mới được truyền bá kiến thức này. Riêng với mục đích rà soát cái gọi là Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa [Trường Sa] trong bản đồ; hãy tìm hiểu kỹ phần 1 Ðại Thanh Nhất Thống Toàn Ðồ, và phần 12 Quảng Ðông Toàn Ðồ; xét về vị trí địa lý các đảo nêu trên nếu có, chỉ có thể thấy trên 2 bản đồ này:
1. Phần 1 Ðại Thanh Nhất Thống Toàn Ðồ:
Ðây là bản đồ tổng quát nước Trung Hoa thời nhà Thanh, tính từ Bắc chí
- Phượng Mã đảo: phía
- Ðại Lưu Cầu, Tiểu Lưu Cầu: phía Đông tỉnh Chiết Giang.
- Ðài Loan: phía Đông tỉnh Phúc Kiến.
- Quỳnh Châu, Nhai Châu: tức phủ Quỳnh Châu và châu Nhai thuộc đảo Hải
2. Phần 12 Quảng Ðông Toàn Ðồ:
Dò tiếp phía
II. Thanh Sử Cảo:
Ðiều thú vị là hầu hết địa danh nêu trên bản đồ đều được đề cập trong Thanh Sử Cảo. Nội dung hai công trình gắn bó với nhau, nên có thể cho rằng công trình sau đã tham khảo công trình trước. Ðể làm sáng tỏ điều này, xin lược dịch lại đoạn địa lý chí chép về đảo Hải
A. Phủ Quỳnh Châu: Trụ sở đạo Quỳnh Nhai nằm trong phủ, cách tỉnh lỵ Quảng Châu 1.810 lý về phía Đông Bắc; có 1 châu, 7 huyện. Phủ và châu Nhai nằm trong đảo Hải Nam, ở giữa có núi Ngũ Chỉ phân cách; phía Nam núi thuộc châu Nhai, Bắc núi thuộc phủ Quỳnh Châu. Trong núi có giống dân Sinh Lê, ngoài núi có dân Thục Lê cùng các châu huyện. Tại núi các động thâm hiểm, dân Lê thường ra vào gây loạn. Năm Quang Tự thứ 15 [1889], Tổng đốc Trương Chi Ðồng bắt đầu cho cắt núi Ngũ Chỉ bằng 12 con đường, gồm: 3 đường phía Đông, 3 đường phía Tây, 1 đường phía Nam, 1 đường phía Bắc, 1 đường Đông Nam, 1 đường Đông Bắc, 1 đường Tây Nam, 1 đường Tây Bắc; nơi hoang dã âm u mở thành đất bằng, mọi người đều cho là thuận tiện. Vào năm Hàm Phong thứ 8 [1858], nước Anh mở thương ước đặt thương cảng Quỳnh Châu. [Phủ Quỳnh Châu gồm]:
- Huyện Quỳnh Sơn: phủ thành đặt trong huyện, phía
- Huyện Trừng Mại: phía Tây phủ 60 lý, phía Nam có núi Mại, phía Bắc giáp biển, sông Kiến Giang tại phía Tây Nam, lại có sông Tân An từ huyện Lâm Cao chảy vào theo phía Đông Nam qua Lê Mẫu hợp với khe Tân Ðiền rồi chảy vào huyện Quỳnh Sơn. Lại có sông Trừng phát nguyên từ núi Ðộc Chu tại phía Đông Nam huyện, chảy theo hướng Tây Bắc đến phía Tây huyện lỵ, hợp với sông Cửu Khúc, rồi theo phía Tây đến cảng Ðông Thủy thì ra biển. Sông Sảo Dương, phía trên nguồn gọi là khe Nam Cổn, chảy qua phía Bắc huyện hợp với sông Sa Ðịa qua Cù Lãnh đến cảng Cù, rồi ra biển.
- Huyện Ðịnh An: nằm về phía Nam phủ lỵ cách 80 lý; phía Tây Nam là núi Ngũ Chỉ còn có tên là núi Lê Mẫu chạy sang phía Đông thành núi Quang Loa, lại tiếp sang Đông thành núi Nam Lư, khe Viễn phát xuất tại phía Nam núi. Phía Bắc huyện, sông Kiến Giang tại Quỳnh Sơn đổ vào hướng Đông hợp với khe Viễn qua Đông Bắc huyện lỵ, các khe Ðàm Giám, Tiên Khách nhập vào theo hướng Đông Bắc vào huyện Quỳnh Sơn, được gọi là sông Nam Ðộ. Phía Tây Nam huyện có sông Vạn Toàn ra khỏi động Nam Bàng hướng phía Đông vào huyện Lạc Hội. Huyện có tuần ty Thái Bình.
- Huyện Văn Xương: [nay là Văn Xương thị] vị trí phía Đông
- Huyện Hội Ðồng: vị trí phía Đông
- Huyện Lạc Hội: vị trí phía Đông
- Huyện Lâm Cao: nằm về phía Tây
- Ðam Châu: [Hiện nay tại phía Tây Bắc Ðam Châu thị] nằm về phía Tây Nam phủ lỵ cách 300 lý; phía Bắc có núi Ðam Nhĩ, còn gọi là núi Tùng Lâm, hoặc Ðằng Sơn; Tây Bắc giáp biển, ngoài biển có núi Sư Tử. Trong châu có sông Kiến Giang, còn gọi là sông Lê Mẫu hướng Tây Nam qua núi Long Ðầu, chia làm hai: nhánh phía Đông gọi là Ðại Giang, hướng Đông Bắc vào huyện Lâm Cao; nhánh phía Tây gọi là sông Bắc Môn hoặc sông Luân hướng Tây Bắc, đến phía Đông Bắc châu uốn sang phía Tây tạo thành cảng Tân Anh, rồi sông Xương Giang từ phía Đông Nam gộp vào để chảy ra biển. Phía Đông Bắc châu có sông Dung Kiều, phía Tây
B. Nhai Châu:
Trước kia thuộc phủ Quỳnh Châu, đến năm Quang Tự 31 [1905] trực thuộc đạo Quỳnh Nhai, cách tỉnh lỵ Quảng Châu 2680 lý về phía Đông Bắc; [trị sở Nhai Châu tại Tam Á thị hiện nay] chiều rộng 242 lý, dọc 175 lý, có 4 huyện. Phía Đông Nhai Châu có núi Hồi Phong, Tây
- Huyện Cảm Ân: [nay thuộc phía Nam Ðông Phương thị] nằm về phía Tây Bắc châu lỵ Nhai Châu cách 195 lý, xưa thuộc phủ Quỳnh Châu, năm Quang Tự thứ 31 [1905] bắt đầu thuộc Nhai Châu. Phía Đông có núi Ðại Nhã, phía Đông Bắc núi Cửu Long, phía Tây giáp biển; phía Đông có Long Giang phát nguyên từ núi Lê Mẫu hướng Tây Nam còn gọi là sông Cảm Ân, chảy sang phía Tây đến phía Bắc huyện lỵ thành cảng Cảm Ân rồi ra biển, nhánh chính hướng Tây Bắc qua chợ Bắc Lê làm thành cảng Bắc Lê rồi hướng Tây Nam ra biển. Sông Lạc An hướng Tây Bắc ra khỏi châu, vào huyện Xương Hóa.
- Xương Hóa: [nay thuộc huyện Xương Giang Lê tộc tự trị], nằm về phía Tây Bắc châu lỵ cách 360 lý, xưa thuộc phủ Quỳnh Châu, năm Quang tự thứ 31 [1905] bắt đầu thuộc Nhai Châu. Phía Đông Bắc có núi Tuấn Linh, phía Đông Nam núi Cửu Phong, Tây Bắc giáp biển; phía Nam Xương Giang tức sông Lạc An từ huyện Cảm Ân chảy vào qua phía Đông Nam huyện lỵ thì chia làm hai: hướng Tây Nam gọi là sông Nam Nhai, hướng Bắc gọi là Bắc Giang, cả hai đều chảy ra biển. Lại có sông An Hài phát nguyên từ Ca Báng Lãnh phía Đông Bắc, hướng Tây
- Lăng Thủy: [nay thuộc huyện Lăng Thủy Lê tộc tự trị], nằm về phía Đông Bắc châu lỵ cách 210 lý, xưa thuộc phủ Quỳnh Châu, năm Quang Tự thứ 31 [1905] bắt đầu thuộc Nhai Châu. Phía Tây có núi Ðộc Tú, phía Nam núi Ða Vân, Đông Nam giáp biển, tại biển có đảo Gia Nhiếp, đảo Song Nữ; phía Tây Bắc có Ðại Hà phát nguyên từ núi Thất Chỉ chảy hướng Đông qua núi Bác Cổ, lượn phía Nam làm thành cảng Ðồng Khê rồi hướng Đông ra biển. Phía Nam có sông Thanh Thủy Ðường Thủy phát nguyên từ thôn Lang Nha phía Tây Bắc, chảy hướng Nam đến phía Tây huyện lỵ được gọi là sông Bút Giá Sơn hợp với Ðại Hà tạo thành cảng Táo Tử, lượn phía Tây Nam đến cảng Tân Thôn thì ra biển; huyện có Tuần ty Bảo Ðình.
- Huyện Vạn: [nay là Vạn Ninh thị] nằm về phía Đông Bắc châu lỵ cách 370 lý, xưa là châu Vạn thuộc phủ Quỳnh Châu, năm Quang Tự thứ 31 [1905] bị giáng thành huyện, lệ thuộc vào Nhai Châu. Phía Đông huyện có núi Ðông Sơn, phía Bắc núi Lục Liên, Đông Nam giáp biển, trên biển có núi Ðộc Châu, dưới là Ðộc Châu Dương; phía Tây Bắc có Long Cổn Hà phát nguyên từ động Tung Hoành, lượn xuống phía Nam rồi ra phía Đông hợp với Lưu Mã Hà, hướng Đông Bắc vào huyện Lạc Hội, lượn theo hướng Đông Nam trở lại phía Bắc huyện, riêng phía Đông có khe Liên Ðường, uốn sang phía Bắc vào huyện Lạc Hội hợp với sông Vạn Toàn, nhánh chính hướng Đông Nam qua núi Liên Chi rồi ra biển. Lại có sông Ðô Phong phát nguyên từ động Tung Hoành, chảy theo hướng Đông Nam rồi chia làm 4 nhánh: cảng Hòa Lạc, Cảng Bắc, khe Thạch Cẩu, sông Kim Tiên, đến phía Đông Bắc huyện lỵ rồi ra biển. Phía Nam Dương Dung Hà phát nguyên từ núi Giá Cô phía Tây Bắc, hướng Đông Nam đến thôn Sấu Ðiền thì chia dòng hợp với Thạch Qui Hà lại theo hướng Đông Nam ra biển. Huyện có Tuần ty Long Cổn, công trường muối Tân An.
Ðến thời Trung Hoa Dân Quốc, đảo Hải
Trong giai đoạn đầu Dân Quốc, chính phủ Trung Hoa chưa đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; mãi đến thập niên 1930 nhận thức được tiềm lực kinh tế tại Biển Đông, mới bắt đầu lên tiếng. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, nhân Nhật Bản đầu hàng đồng minh, chính phủ này cho mang quân chiếm một vài đảo trong 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thu nhận đảo Hải
Năm 1988, thiết lập tỉnh Hải
- Hai địa hạt cấp thị: Hải Khẩu thị, Tam Á thị.
- Bốn thị hạt khu: Quỳnh Sơn khu, Long Hoa khu, Tú Anh khu, Mỹ Lan khu.
- Sáu huyện cấp thị: Văn Xương thị, Quỳnh Hải thị, Vạn Ninh thị, Ðam Châu thị, Ðông Phương thị, Ngũ Chỉ Sơn thị.
- Bốn huyện: Ðịnh An huyện, Ðồn Xương huyện, Trừng Mại huyện, Lâm Cao huyện.
- Sáu tự trị huyện: Quỳnh Trung Miêu tộc Lê tộc tự trị huyện, Bảo Ðình Miêu tộc Lê tộc tự trị huyện, Bạch Sa Lê tộc tự trị huyện, Xương Giang Lê tộc tự trị huyện, Lạc Ðông Lê tộc tự trị huyện, Lăng Thủy Lê tộc tự trị huyện.
- Khai phát khu: Dương Phố kinh tế khai phát khu.
- Biện sự xứ: Tây Sa [Hoàng Sa] quần đảo, Nam Sa [Trường Sa] quần đảo, Trung Sa quần đảo.
III. Kết luận:
Bài viết này cho thấy tài liệu chính thức của Trung Quốc về thời nhà Thanh (1644-1911) như Thanh Sử Cảo và bản đồ soạn và in thời đó như Ðại Thanh Nhất Thống Toàn Ðồ đã không coi Tây Sa [Hoàng Sa], Nam Sa [Trường Sa] là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Ðại Thanh Nhất Thống Toàn Ðồ có thể không phải là bản đồ chính thức nhưng đã được thu thập, ghi chú và lưu giữ ở Hội Thừa Sai Luân Đôn và Thư viện Quốc gia Ôxtrâylia. Đây là tài liệu đáng tin cậy vì khi được soạn thảo dưới một triều đại mà vua chúa có quyền sinh sát với những người làm sai thì người soạn bản đồ đó không thể tự ý loại bỏ một phần đất trong lãnh thổ Trung Quốc. Thêm nữa, hai tài liệu này hoàn toàn không mâu thuẫn nhau. Nó cũng phù hợp với Minh Sử mà tác giả đã viết trong một bài khác. Ngoài ra kết luận ở đây cũng phù hợp với bản đồ nhà Thanh mà Đại học
Năm 2023, dù chiến sự tại Ukraine diễn biến căng thẳng và xung đột tại Trung Đông leo thang, tình hình Biển Đông tiếp tục thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Biển Đông cũng ngày càng được coi là chỉ dấu về trật tự dựa trên luật lệ từ phía Mỹ và đồng minh – đối tác thông qua các tuyên bố và văn bản...
Trả lời câu hỏi của phóng viên chiều ngày 25/5/2023, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng cho biết, tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 (XYH-10) của Trung Quốc cùng một số tàu hải cảnh, tàu cá bảo vệ đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được xác lập phù hợp với các quy định của...
Trong gần hai năm trở lại cầm quyền tại Malaysia từ tháng 5/2018 - 3/2020, Thủ tướng Mahathir Mohamad (sau đây gọi là Chính quyền Mahathir 2.0) đã thổi luồng gió mới vào chính sách Biển Đông của Malaysia. Khác với cách tiếp cận “thầm lặng” của chính quyền tiền nhiệm, Thủ tướng Mahathir và chính quyền...
Qua phân tích ảnh vệ tinh Đá Ba Đầu từ 2016 đến nay cho thấy, việc Trung Quốc tập kết lượng lớn tàu, dài ngày tại Đá Ba Đầu không phải để tránh thời tiết xấu mà nhiều khả năng là chiến thuật "cắt lát Salami" mới ở Biển Đông, bắt đầu triển khai từ tháng 2 năm 2020.
Bài viết phân tích Hải chiến Hoàng Sa (1974), cuộc tấn công ở Trường Sa (1988), sự kiện Đá Vành Khăn (1995) và sự kiện Bãi cạn Scarborough (2012) để tìm ra những quy luật nhất định. Đây sẽ là cơ sở để phán đoán thời điểm Trung Quốc hành động chiếm mới các thực thể ở Biển Đông để từ đó Việt Nam ra...
Nội dung bài viết bao quát lịch sử quá trình từ khi Trung Quốc manh nha thúc đẩy ý tưởng nghiên cứu băng cháy trên Biển Đông; cho đến hiện trạng khai thác hiện nay để làm rõ thực chất Trung Quốc đã đi đến bước nào trong tiến trình khai thác một loại năng lượng mới ở trên Biển Đông.