Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc xây dựng trạm xăng trái phép ở Biển Đông. Theo thông tin đăng trên trang web của Tập đoàn dầu mỏ và hóa chất Trung Quốc (Sinopec) ngày 14/12, Tập đoàn này đang xây dựng một trạm xăng trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trên. Theo Sinopec, trạm xăng và một bể chứa kèm theo sẽ được hoàn tất trong vòng 1 năm. Theo phía Trung Quốc, công trình này sẽ đáp ứng nhu cầu nhiên liệu cần thiết trên các đảo và đá ở Biển Đông trong vài năm tới.

Trung Quốc phản ứng tuyên bố chung Nhật - Ấn kêu gọi kiềm chế ở Biển Đông. Phát biểu trong cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 14/12, Người phát ngôn Hồng Lỗi tuyên bố: “Hoạt động xây dựng của Trung Quốc trên các đảo, đá ở Biển Đông nằm trong phạm vi chủ quyền của Trung Quốc, không nhằm vào bất kỳ quốc gia nào cũng như không cản trở tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Chúng tôi hy vọng các quốc gia ngoài khu vực tôn trọng nỗ lực các nước khu vực trong việc duy trì hòa bình và ổn định, thay vì đi ngược lại.” Về hoạt động tự do hàng không mà máy bay Úc gần đây tiến hành ở Biển Đông, ông Hồng hôm 15/12 cho hay, “Chúng tôi hy vọng các quốc gia khác, đặc biệt là ngoài khu vực, cần thận trọng trong lời nói và hành động, không gây rắc rối và chủ ý làm phức tạp tình hình ở Biển Đông.” Về việc đài BBC thông tin hoạt động xây dựng của Trung Quốc đã phá hoại môi trường biển, ông Hồng hôm 16/12 khẳng định, “Phía Trung Quốc đã xem xét kỹ các vấn đề như môi trường sinh thái và bảo vệ ngư nghiệp, tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn môi trường và tiến hành nhiều biện pháp hiệu quả để bảo vệ môi trường sinh thái.” Về việc máy bay ném bom B-52 của Mỹ bay gần các đảo nhân tạo của Trung Quốc hôm 10/12, ông Hồng hôm 20/12 tuyên bố: “Trung Quốc hết sức quan ngại vụ việc này và đã gửi công hàm phản đối với phía Mỹ. Trung Quốc một lần nữa thúc giục Mỹ cân nhắc và sửa sai, dừng mọi hành động xâm phạm chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.” Trước đó hôm 19/12, Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố hành động của Mỹ là khiêu khích quân sự, gây phức tạp tình hình và thậm chí thúc đẩy hoạt động quân sự hóa trong khu vực.

Ngoại trưởng Trung Quốc trấn an về tình hình Biển Đông. Phát biểu trong chuyến thăm Berlin, Đức hôm 19/12, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố: “Một số quốc gia ngoài khu vực đang quan tâm đến khu vực này và chúng tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Nhưng tôi nghĩ rằng các quốc gia cần hỗ trợ các nỗ lực gìn giữ ổn định thay vì làm gia tăng căng thẳng hoặc kích động các nước chống lại nhau.” Theo ông Vương, tình hình ở Biển Đông hiện tương đối ổn định.

+ Việt Nam:

Việt Nam chuẩn bị tiếp nhận tàu ngầm Kilo thứ 5. Theo tin tức trong ngành công nghiệp đóng tàu Nga, tàu ngầm lớp Varshavyanka (NATO gọi là Kilo) thứ 5 trong số 6 chiếc thuộc dự án 636 được Hải quân Việt Nam đặt Nhà máy đóng tàu Admiralty sản đã lên đường tới cảng Cam Ranh của Việt Nam vào ngày 17/12. Ngoài việc đóng tàu ngầm tại Nhà máy Admiralty, hợp đồng còn kèm theo điều khoản đào tạo thủy thủ đoàn Việt Nam và cung cấp các trang thiết bị kỹ thuật cần thiết.

+ Philippines:

Philippines tăng ngân sách quân sự kỷ lục cho năm 2016. Hôm 17/12, Hạ viện Philippines vừa thông qua ngân sách quốc gia 2016, trong đó chi phí quốc phòng đạt mức kỷ lục, hơn 500 triệu đô la. Ngân sách quốc phòng 25 tỷ peso sẽ được Manila sử dụng vào việc mua thêm chiến hạm, phi cơ trinh sát và radar để cải thiện năng lực bảo vệ các vùng biển của Philippines. Việc Philippines tăng cường chi tiêu quốc phòng cũng là xu hướng chung các nước quanh Biển Đông.

+ Úc:

Máy bay quân sự AP-3C Orion của Úc tuần tra ở Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Úc hôm 16/12 cho biết: “Máy bay AP-3C Orion của của Không quân Hoàng gia Australia (RAAF) đã thực hiện tuần tra ở Bắc Ấn Độ Dương và Biển Đông như một phần của chiến dịch Operation Gateway từ 25/11 đến 4/12. Hoạt động tuần tra này là nỗ lực của Úc nhằm duy trì an ninh và ổn định ở Đông Nam Á.” Phát biểu trên được đưa ra sau khi Đài BBC của Anh tối 15/12 công bố đoạn ghi âm trên sóng radio, trong đó phi công của RAAF đang gọi cho Hải quân Trung Quốc thông báo, Chúng tôi là máy bay của Úc thực hiện quyền tự do đi lại quốc tế trong không phận quốc tế theo Công ước hàng không dân dụng quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.” Đài BBC cho hay họ đã thu được nội dung trên hôm 25/11. Phát biểu với phóng viên tại Adelaide, miền Nam Úc hôm 17/12, Bộ trưởng Quốc phòng Úc bà Marise Payne cho hay Canberra tuyên bố không có kế hoạch ngừng tuần tra ở Biển Đông trước các sức ép từ Trung Quốc, “Đây là hoạt động tuần tra thông thường của Úc nhằm hỗ trợ duy trì an ninh và ổn định ở khu vực. Chúng tôi luôn hành động theo cách thức rất xây dựng.”

+ Mỹ:

Máy bay B-52 của Mỹ bay gần đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông. Khi đang thực hiện nhiệm vụ thường kỳ hồi tuần trước, máy bay ném bom Mỹ vô tình bay trong phạm vi hai hải lý quanh đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng trái phép ở Đá Châu Viên. Một quan chức quốc phòng Mỹ cấp cao nói thời tiết xấu đã làm phi công bay chệch hướng. Phát ngôn viên Lầu Năm Góc Bill Urban cho hay, “Với nhiệm vụ này, máy bay không có ý định bay vào phạm vi 12 hải lý. Phía Trung Quốc đã nêu quan ngại với chúng tôi về đường bay của nhiệm vụ gần đây. Chúng tôi đang xem xét vấn đề.

Đô đốc Hải quân Mỹ lo ngại nguy cơ chạy đua vũ trang ở Biển Đông. Trong một bài phát biểu tại Hawaii ngày 14/12, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ, Đô đốc Scott Swift đã cảnh báo về một cuộc chạy đua vũ trang trong tranh chấp ở Biển Đông, “Sau nhiều thập kỷ hòa bình và thịnh vượng, giờ đây chúng ta có thể phải đối mặt với việc quay trở lại cuộc cạnh tranh sức mạnh trong khu vực. Bên yêu sách và cả bên không có yêu sách (ở trong khu vực) giống như là đang dành phần lớn nguồn lực quốc gia để phát triển lực lượng hải quân ở mức lớn hơn cần thiết.” Đô đốc Scott Swift cũng thúc giục các bên tranh chấp nhanh chóng giải quyết vấn đề bằng các biện pháp hòa bình, bao gồm cả việc đưa ra phân xử tại cơ quan trọng tài quốc tế. 

Quan hệ các nước

Nhật - Úc củng cố quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Thủ tướng Úc Malcolm đã có cuộc gặp thượng đỉnh hôm 18/12 tại Tokyo. Tuyên bố chung sau cuộc gặp nhấn mạnh tầm quan trọng của việc củng cố mối quan hệ đặc biệt của hai nước trong việc gánh vác trách nhiệm giữ gìn hoà bình và thịnh vượng tại châu Á-Thái Bình Dương cũng như trên thế giới. Liên quan vấn đề biển Hoa Đông và Biển Đông, “Hai Thủ tướng đều thống nhất quan điểm sự thịnh vượng kinh tế của các nước trong khu vực dựa trên sự duy trì một cách hoà bình trật tự quốc tế. Hai Thủ tướng bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ những hành động mang tính áp đặt hoặc đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng khu vực. Hai nhà lãnh đạo kêu gọi các bên liên quan ngừng hoạt động bồi đắp hoặc xây dựng trái phép, không sử dụng các thực thể tại các khu vực trên vào mục đích quân sự. Hai Thủ tướng kêu gọi các bên kiềm chế, thực thi các biện pháp nhằm giảm căng thẳng và phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm các nguyên tắc tự do hàng hải và hàng không.

Đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam - Indonesia. Đàm phán vòng 7 cấp chuyên viên phân định Vùng đặc quyền về kinh tế Việt Nam-Indonesia đã diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15-17/12/2015. Trưởng đoàn đàm phán phía Việt Nam là ông Trịnh Đức Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao. Trưởng đoàn đàm phán phía Indonesia là Ngài Octavino Alimudin, Tổng Vụ trưởng Vụ các Điều ước Chính trị, An ninh và Lãnh thổ, Bộ Ngoại giao. Tại cuộc họp vòng 7, hai đoàn đã tiếp tục trao đổi các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982.

Việt-Trung khảo sát khu vực thỏa thuận vùng ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo Cấp cao hai nước Việt Nam-Trung Quốc, ngày 19/12, Cục Đo đạc và Bản đồ, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam và Cục Điều tra địa chất, Bộ Tài nguyên đất đai Trung Quốc lần lượt tổ chức Lễ khởi động khảo sát chung tại khu vực thỏa thuận vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ tại thành phố Đà Nẵng (Việt Nam) và thành phố Quảng Châu (Trung Quốc). Khu vực khảo sát chung có diện tích 386,7 km2 thuộc vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Mục tiêu của việc khảo sát chung là phục vụ công tác phân định ranh giới thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ Việt Nam-Trung Quốc và hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này.

Phân tích và đánh giá

Hải quân Úc âm thầm triển khai máy bay ở Biển Đông: Phép thử phản ứng của Trung Quốc của Nick Bisley,

Vào 14/12, BBC có bài ghi nhận máy bay phát sáng đã bay qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa. Bộ Trưởng quốc phòng Úc đã xác nhận, ở điều kiện bình thường máy bay Orion của Úc đã triển khai tuần tra biển thường lệ mặc dù không công khai thừa nhận các hoạt động tự do hàng hải hay bản chất của việc bay này.

Có nhiều lời đồn đoán rằng mục đích của việc máy bay Úc bay qua các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông là phản ứng trước việc Trung Quốc cải tạo các đảo ở Biển Đông, cũng là phép thử phản ứng của Trung Quốc và dự đoán rằng hải quân Trung Quốc sẽ phản ứng mạnh tay và sự kiện này sẽ làm “sôi sục thêm” xung đột tại Biển Đông. Trước đó, trong năm nay, Úc đã công khai đề cập đến một số phản ứng ngoài tuyên bố ngoại giao, và vào tháng 6, Bộ trưởng Quốc phòng Kevin Andrews đã nói rằng Úc cần phải kiểm tra quyết tâm của Trung Quốc. Tuy nhiên, về mặt công khai, chính phủ Úc luôn tìm cách giảm những ngôn từ gay gắt thường diễn ra trong những tranh luận về Biển Đông.

Úc có thể đang tiếp tục theo đuổi cách tiếp cận của Mỹ là sẽ “bay, lưu thông và hoạt động bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép” trong vấn đề này. Tuy nhiên, Úc đã thực hiện việc này một cách thận trọng, kín đáo trái ngược với Mỹ - nước công khai về mọi nỗ lực ở Biển Đông, kể cả việc cho phóng viên CNN lên máy bay trinh sát cũng như công khai hành động của tàu US Lassen.

Dường như Úc muốn gửi một tín hiệu đến Trung Quốc rằng Úc không tin hành động của Trung Quốc sẽ làm thay đổi hoạt động của quân đội Úc trên biển, nhưng Úc muốn làm theo cách không gây căng thẳng trong khu vực và không ảnh hưởng tới quan hệ song phương.

Thực tế là việc Úc tiến hành thực thi tự do hàng hải này phù hợp với các tuyên bố của các quan chức và giới chính trị Úc trong những năm gần đây liên quan đến các hành động của Trung Quốc, thông báo của chính phủ về mục đích chiến lược của Úc ở châu Á.

Không dễ dự đoán Trung Quốc sẽ phản ứng thế nào. Tuy nhiên, có một khả năng riêng biệt mà Trung Quốc có thể quyết định sử dụng sự kiện này như một cái cớ để thúc ép Úc như suốt 8 năm qua, Trung Quốc thường có thói quen “thử thách” các chính phủ mới của Úc.  Đây cũng có thể là cái cớ để Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kiểm tra chính quyền mới của Thủ tướng Malcolm Turnbull. 

Báo Trung Quốc: Trung Quốc có nên rút khỏi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS)?” của Giả Vũ, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Phát triển Hải dương, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc.

Xoay quanh việc điều trần và thụ lý của Tòa Trọng tài (PCA) đối với vụ kiện Biển Đông, có học giả Trung Quốc bắt đầu nêu ra vấn đề Trung Quốc rút khỏi UNCLOS. Quan điểm này cho rằng, vì “UNCLOS không có lợi đối với Trung Quốc, chúng ta cũng không chấp nhận, không tham gia trọng tài, tương lai sẽ không thể chấp hành phán quyết, vậy thì tốt nhất là rút khỏi UNCLOS”.

Dù Chính phủ Trung Quốc đã ra tuyên bố “Văn kiện lập trường của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về vấn đề thẩm quyền vụ kiện Biển Đông” cho rằng, PCA không có thẩm quyền đối với vụ kiện Biển Đông mà Philippines đã nêu ra, tiến trình vẫn được thực hiện và đã ra phán quyết có thẩm quyền đối với vụ kiện.

Theo tác giả, việc rút khỏi UCLOS có thể né tránh vụ kiện hiện nay và cũng có thể đóng mãi mãi cánh cửa thông qua biện pháp tư pháp hoặc chuẩn tư pháp để giải quyết tranh chấp trong hệ thống UNCLOS. Tuy nhiên, “Công ước” là thành quả đấu tranh của các nước đang phát triển thuộc thế giới thứ ba do Trung Quốc dẫn dắt. Năm nay, trong khuôn khổ UNCLOS, lợi ích của Trung Quốc và hầu hết các quốc gia đang phát triển vẫn có tính thống nhất tương đối lớn, phối hợp lập trường, ủng hộ lẫn nhau tại nhiều diễn đàn như: Đại hội nước thành viên UNCLOS, Đối thoại về vấn đề biển và luật biển, phân định thềm lục địa ngoài 200 hải lý, khu vực đáy biển quốc tế, khu vực bảo vệ biển quốc tế... Trung Quốc với tư cách là nước lớn, là 1 trong 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, nền kinh tế đứng thứ 2 thế giới có sức ảnh hưởng toàn cầu, nên việc rút khỏi UCNLOS - một Công ước có tính phổ biến - để nằm ngoài trật tự pháp lý hải dương quốc tế thì khó mà tưởng tượng nổi. Cho đến hiện nay vẫn chưa có bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là nước lớn rút khỏi UNCLOS.

Vấn đề biển hiện nay tất nhiên liên quan đến UNCLOS, nhưng hơn nữa là kết quả của sự đan xen của các loại nhân tố, là ván cờ của các kiểu lực lượng, là vấn đề mà nước lớn mới nổi không thể né tránh, đi đường vòng trong quá trình phát triển.

Có ba lý dơ cơ bản để Trung Quốc không nên rút khỏi UNCLOS:

Thứ nhất: không thể giải quyết về cơ bản vấn đề Biển Đông.

Thứ hai, sẽ gây tổn hại đến hình ảnh nước lớn, gây ra đánh giá và ảnh hưởng tiêu cực.

Thứ ba, sẽ liên quan đến nhiều lợi ích cụ thể và vấn đề thực tế, thực tế là một hành động rất nhỏ nhưng ảnh hưởng toàn cục, cái giá phải trả quá lớn, được và mất kém xa nhau.

Bởi vậy rút khỏi UNCLOS không phải là biện pháp tốt để giải quyết vấn đề.

“Vit Nam tích cc cng c năng lc trên bin của Hunter Marston

Nhiều nhà quan sát cảm thấy hào hứng về triển vọng kinh tế của Việt Nam nhờ việc Việt Nam đã tham gia TPP, song sức mạnh ngày càng tăng của Hà Nội còn được thể hiện rõ tại các vùng biển rộng lớn. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực tăng cường năng lực hải quân. Đáng chú ý, trong năm nay, Việt Nam đã tiếp nhận 6 tàu tuần tra bờ biển từ Nhật Bản và 6 tàu cao tốc từ Mỹ. Việt Nam còn lên kế hoạch đưa 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga đi vào hoạt động trong năm 2017.

Trong khi báo chí quốc tế đưa tin rầm rộ về việc Việt Nam mở rộng quy mô đơn vị tuần tra bờ biển thì điều khiến Trung Quốc đặc biệt lưu tâm là chương trình tên lửa mới của Việt Nam. Các chuyên gia nhận thấy chương trình tên lửa là trọng tâm kế hoạch hiện đại hóa quốc phòng của Việt Nam và chưa có quốc gia Đông Nam Á nào chú trọng tới một chương trình tương tự, và đây là điều khiến Trung Quốc chú ý”.

Theo chuyên gia Carl Thayer, cả 4 tàu ngầm lớp Varshavyanka của Việt Nam đều được trang bị tên lửa hành trình có khả năng khai hỏa dưới nước và có tầm bắn gần 300 km. Ông Thayer nhắc lại rằng hồi tháng 5 vừa qua, Nga đã chuyển cho phía Việt Nam 28 trên tổng số 50 tên lửa chống hạm và tên lửa tấn công mặt đất theo hợp đồng đã ký trước đó.

Theo Giáo sư Lyle Goldstein- chuyên gia tại Trường Chiến tranh Hải quân, giới phân tích quốc phòng Trung Quốc đang theo dõi chặt chẽ các hoạt động hiện đại hóa quân sự của Việt Nam- điều khiến nhiều người ở Trung Quốc thực sự phải dè chừng. Theo ông Goldstein, “chiến lược đối phó với Trung Quốc khả thi nhất của Việt Nam là xây dựng một lực lượng đủ sức răn đe và tiến hành song song các biện pháp ngoại giao để giải quyết tranh chấp”.

Các sáng kiến ngoại giao của Việt Nam được thể hiện qua quyết tâm củng cố quan hệ đối tác với Mỹ. Tuy vẫn tiếp tục thắt chặt quan hệ quốc phòng với Mỹ, song Hà Nội nhiều khả năng sẽ có thêm các biện pháp để đảm bảo kế hoạch hiện đại hóa quân sự của mình không thu hút sự chú ý quá nhiều từ Trung Quốc.

Trong bối cảnh giới lãnh đạo Việt Nam chuẩn bị cho một cuộc chuyển giao chính trị quan trọng sau Đại hội Đảng vào đầu năm 2016, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tìm cách cân bằng mối quan hệ hữu hảo với phía Trung Quốc và các quan hệ đối tác chiến lược đang nở rộ trong khu vực cũng như đối với phương Tây. Trong thập kỷ tới, Việt Nam nhiều khả năng sẽ càng trở nên quan trọng hơn trong chính sách an ninh tổng thể tại châu Á của Mỹ.

Hợp tác hàng hải dân sự và vấn đề Biển Đông” của Anthony Bergin

Trong một diễn đàn do Viện Nghiên cứu Chính sách Chiến lược Úc (ASPI) tổ chức với chủ đề “Cộng đồng quốc tế và sự cân bằng chiến lược tại Biển Đông”, các học giả đã đưa ra một số gợi ý về cách thức ngăn chặn các hành động hung hăng của Trung Quốc, trong đó tập trung thảo luận chương trình thực thi tự do hàng hải của Mỹ tại Biển Đông. Tuy nhiên, ngoài một ý kiến đề cập tới việc đánh bắt thủy sản, không có nhiều ý kiến nói về các hình thức hợp tác rộng rãi hơn tại Biển Đông trong các lĩnh vực như nghiên cứu biển, tìm kiếm, cứu nạn và bảo vệ môi trường biển nhằm giảm căng thẳng giữa các bên.

Một vài năm trước, ASPI cũng tổ chức một cuộc họp về các biện pháp xây dựng lòng tin hàng hải ở Biển Đông. Khi đó, các đại biểu của Úc và các nước trong khu vực đã kết luận rằng hợp tác tại Biển Đông đạt được rất ít tiến bộ. Hội nghị này đã đi tới kết luận rằng sự mất lòng tin giữa các cường quốc và các nước láng giềng trong khu vực là một yếu tố quan trọng giải thích cho sự thiếu tiến bộ trong hợp tác. Chính vì vậy, tình hình Biển Đông ngày một xấu đi.

Thời gian gần đây, việc hình thành ba sáng kiến tích cực có thể thúc đẩy hợp tác hàng hải ở Biển Đông:

Một là, vào năm 2014, Trung Quốc và Mỹ đã ký một biên bản ghi nhớ về các quy định liên quan đến hành vi ứng xử đối với an toàn hàng không và hàng hải trong các tình huống chạm trán bất ngờ.

Hai là, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN năm nay ủng hộ việc thành lập Diễn đàn Lực lượng bảo vệ bờ biển ASEAN để giải quyết hợp tác hàng hải dân sự.

Ba là, Mỹ đưa ra Sáng kiến thực thi luật biển Đông Nam Á, theo đó cung cấp 100 triệu USD hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ bờ biển và cảnh sát biển của Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam để hỗ trợ cho việc hợp tác và phối hợp rộng rãi hơn trong khu vực.

Các diễn đàn quan trọng của khu vực nhằm giải quyết vấn đề an ninh hàng hải bao gồm Diễn đàn Hàng hải ASEAN mở rộng (EAMF), Diễn đàn Khu vực ASEAN họp giữa kỳ về an ninh hàng hải, và các chuyên gia an ninh hàng hải thuộc nhóm làm việc theo cơ chế Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+). Tuy nhiên, chưa cuộc họp nào thực sự đề cập tới hợp tác hàng hải tại Biển Đông.

Nhìn tổng thể, vấn đề nổi lên hiện nay là thúc đẩy hợp tác trên biển. Tuyên bố của Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Đông Á (EAS) tại Kuala Lumpur (Malaysia) ngày 22/11 nhấn mạnh các vấn đề kinh tế biển như tập trung vào hợp tác hàng hải nói chung, chứ không đề cập đến những hợp tác an ninh hàng hải khó khăn hơn. Khi thảo luận về “sự cố trên biển" thì chỉ tập trung vào vấn đề tìm kiếm và cứu nạn. Như vậy, các nước không nên quên sự cần thiết phải tập trung vào hợp tác hàng hải như một phương tiện để giảm sự mất lòng tin trong khu vực.

Thế giới quan của Trung Quốc thể hiện trên Biển Đông như thế nào của Marriden Varrall

Thế giới quan chủ đạo trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc đó là: thế kỷ sỉ nhục; đặc tính văn hoá cố hữu và bất biến; lăng kính về sứ mệnh lịch sử, quan niệm về lòng hiếu thảo và trách nhiệm gia đình, tất cả đều được áp dụng cho cả Trung Quốc cũng như các quốc gia láng giềng.

Nhìn chung, 4 lăng kính này càng khuyến khích Trung Quốc tin tưởng vào con đường nhằm khôi phục vai trò trung tâm trước đây ở khu vực và toàn cầu, và thế giới cần thừa nhận điều đó. Theo đó, các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông phản ánh mong muốn dần lấy lại quyền và sự tôn kính ở khu vực. Thái độ của Trung Quốc với các bên yêu sách ở Biển Đông phản ánh câu chuyện hiếu thuận và trách nhiệm gia đình, trong đó vai trò của Trung Quốc như một người giám sát hòa bình khu vực, trong đó các nước láng giềng tự nguyện cống nạp và tỏ lòng tôn kính.

Câu chuyện về thế kỷ sỉ nhục và bản chất bất biến của các đặc tính văn hoá cũng phản ánh cách nhìn của Trung Quốc về vai trò của Mỹ ở Biển Đông. Trung Quốc cắt nghĩa các hành vi tự do hàng hải của Mỹ không phải để thực thi các nguyên tắc biển quốc tế mà là một phần của nỗ lực duy trì sự bá chủ lâu dài và kiềm chế sự hồi sinh của Trung Quốc trên thế giới.

Các hành vi của Trung Quốc gần đây ở Hoa Đông cũng phản ánh 4 câu chuyên kể trên. Trung Quốc và Nhật Bản vốn có tranh chấp lâu dài về quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, và câu chuyện về đặc tính văn hoá bất biến và thế kỷ sỉ nhục đặc biệt được cộng hưởng khi trọng tâm đặt vào Nhật Bản - được nhìn nhận như mối nguy hiểm thường trực đối với Trung Quốc.

Bốn lăng kính này không chỉ đúng khi lý giải các hành vi của Trung Quốc về vấn đề an ninh, mà còn được áp dụng về kinh tế. Sáng kiến Ngân hàng AIIB và Một Vành đai Một Con đường cũng phản ánh nhãn quan về thể kỷ sỉ nhục và sứ mệnh lịch sử. Tất cả được mô tả như một bằng chứng mà Trung Quốc muốn chứng minh rằng, Trung Quốc sẽ vượt qua thời kỳ yếu đuối và dễ bị tổn thương.

Lời kêu gọi thấu hiểu thế giới quan của Trung Quốc không phải thể hiện sự nhân nhượng. Trong một số trường hợp, các nhà hoach định chính sách cần phản ứng mạnh mẽ trước các hành vi của Trung Quốc cho dù điều này có thể trả cái giá lâu dài. Mặc dù vậy, lựa chọn phản ứng của Mỹ và đồng minh đối với Trung Quốc nên dựa vào các trường hợp cụ thể. Trong một số trường hợp, Mỹ và phương Tây có lẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc buộc phải hành động, và điều đó có thể củng cố thêm các khía cạnh tiêu cực của những câu chuyện kể trên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác, với sự hiểu biết thế giới quan của Trung Quốc có thể giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra các phản ứng phù hợp, không  kích động những khía cạnh tiêu cực./