Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc - Philippines 'trao đổi hậu trường' để cải thiện quan hệ. Phát biểu trong cuộc họp báo ở Bắc Kinh hôm 31/8, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân cho hay việc PhilippinesTổng thống mới là cơ hội để 2 bên hàn gắn quan hệ rạn nứt, “Ngoài các tiếp xúc công khai như chuyến đi của cựu tổng thống Fidel Ramos đến Hồng Kông để gặp những người bạn cũ Trung Quốc còn có những trao đổi quan trọng phía trong hậu trường. Bản thân đại sứ Trung Quốc tại Philippines cũng duy trì liên lạc thân thiết với ông Duterte, các cố vấn của ông cùng bộ Ngoại giao Philippines”. Ngoài ra, ông Lưu khẳng định mối quan hệ của Trung Quốc với ASEAN đang bước vào “giai đoạn chín muồi.” Năm nay kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ đối thoại giữa hai bên, và phát triển mối quan hệ với ASEAN là một ưu tiên ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Theo ông Lưu, hiện Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, và ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc.

Trung Quốc triển khai thêm tàu đến bãi cạn Scarborough. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines ông Delfin Lorenzana cho hay một máy bay Philippines bay trên bãi cạn này hôm 3/9 đã phát hiện nhiều tàu thuyền Trung Quốc xuất hiện tại đây, “Có 4 tàu tuần duyên Trung Quốc và 6 tàu khác, trong đó có cả các sà lan màu xanh, quanh bãi cạn Scarborough. Sự hiện diện nhiều tàu ngoài tàu tuần duyên trong khu vực này gây quan ngại nghiêm trọng”. Theo ông Lorenzana, Bắc Kinh hồi đầu năm đã điều các sà lan nạo vét đến bãi cạn, “Chúng tôi không biết liệu những sà lan đó có phải là dấu hiệu của hoạt động nạo vét trong tương lai hay không. Nếu họ định xây dựng gì ở Scarborough, điều đó sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh”.

+ Việt Nam:

Chủ tịch nước Trần Đại Quang phát biểu tại Đối thoại Singapore thứ 38. Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cộng hòa Singapore, ngày 30/8, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã có bài phát biểu tại Đối thoại Singapore thứ 38 do Viện Yusof Ishak - Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) tổ chức. Về vấn đề Biển Đông, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhấn mạnh chủ trương nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình thông qua các tiến trình chính trị, ngoại giao, pháp lý, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS năm 1982, yêu cầu các bên liên quan nghiêm chỉnh thực hiện DOC và đàm phán thực chất COC ở Biển Đông.

+ Philippines:

Philippines hướng tới thỏa thuận đánh bắt cá tạm thời với Trung Quốc. Phát biểu trong buổi điều trần tại Hạ viện ngày 30/8, Ngoại trưởng Philippines Perfecto Yasay cho biết Philippines hy vọng đạt được thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc về chia sẻ quyền đánh bắt cá truyền thống cho tới khi hai bên đạt được một giải pháp lâu dài hơn cho tranh chấp, “Tôi đang cân nhắc khả năng thu xếp cho Tổng thống Duterte tới thăm Trung Quốc. Nhưng tôi hy vọng rằng, trước khi chuyến thăm này diễn ra, hai bên có thể thống nhất tạm ước về quyền đánh bắt cá, tạo điều kiện cho việc khởi động đàm phán song phương chính thức để giải quyết tranh chấp biển”. Ông Yasay khẳng định, “Chúng ta sẽ không tạo ra bất kỳ cuộc chiến nào với Trung Quốc. Bởi vậy, chúng ta sẽ chủ trương rộng lượng, kiềm chế và điềm tĩnh. Nhiệm vụ của chúng ta tại thời điểm này là đảm bảo rằng, các tiến trình ngoại giao đang và sẽ được thúc đẩy có thể giúp chúng ta đạt được các mục tiêu đề ra”.

Tổng thống Philippines muốn tạm thời gác lại phán quyết vụ kiện. Nhân ngày Các anh hùng dân tộc Philippines hôm 4/9, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đã có bài phát biểu trước quan khách tại công viên tưởng niệm Libingan ng mga Bayani ở thành phố Taguig. Ông Duterte nhấn mạnh: “Tôi sẽ không dùng đến phán quyết của Toà vào lúc này. Nhưng một ngày nào đó, tôi sẽ ngồi trước các đại diện của Trung Quốc sẽ đưa ra quan điểm rõ ràng của mình. Tôi sẽ không thể xa rời phán quyết đó”. Tổng thống Duterte khẳng định ông không muốn chiến tranh với Trung Quốc, “Tôi hiểu những gì đang diễn ra bên trong Trung Quốc. Tôi đã được giải thích rõ về những điều đó nhưng lúc này người Trung Quốc nên dành một chỗ trong tim cho người Philippines”.

+ Mỹ:

Mỹ kêu gọi Trung Quốc, Philippines tuân thủ phán quyết. Phát biểu trước các sinh viên tại thủ đô New Delhi trong chuyến công du Ấn Độ từ ngày 29-31/8, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khẳng định phán quyết của Tòa hôm 12/7 là cuối cùng và mang tính ràng buộc. Đây là cơ hội quan trọng để duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật pháp như hiện nay, và đóng góp cho hòa bình cũng như thịnh vượng ở khu vực. Ông Kerry nhấn mạnh không có “giải pháp quân sự cho tranh chấp và “Mỹ sẽ bảo vệ những quyền của mình và sẽ sát cánh với các đồng minh bảo vệ quyền của các nước khác đối với tự do hàng hải, hàng không.”

Tổng thống Mỹ kêu gọi Trung Quốc tránh gây căng thẳng trên biển. Trả lời phỏng vấn kênh truyền hình CNN hôm 2/9 trước khi lên đường sang Trung Quốc tham dự Hội nghị G20, Tổng thống Barack Obama cho biết Mỹ ủng hộ một Trung Quốc trỗi dậy hòa bình, song Bắc Kinh cần nhận thức rõ rằng sức mạnh càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Ông Obama nêu rõ Trung Quốc đã ký các công ước quốc tế về luật biển, do vậy nước này cần phải tuân thủ luật pháp. Washington sẽ có những hành động kiên quyết trước bất kỳ sự vi phạm luật pháp và chuẩn mực quốc tế nào tại Biển Đông.

+ Úc:

Úc hối thúc Trung Quốc giải quyết hòa bình tranh chấp biển. Trong cuộc gặp song phương với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề hội nghị thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu hôm 4/9, Thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đã khẳng định lập trường của Úc trong vấn đề Biển Đông, đồng thời hối thúc Trung Quốc giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở “phù hợp với luật pháp quốc tế”. Đáp lại, Chủ tịch Tập Cận Bình kêu gọi Canberra tôn trọng lợi ích của Trung Quốc.

+ Nga:

Nga phản đối sự can thiệp của bên thứ ba vào tranh chấp Biển Đông. Bên lề hội nghị G20 tại Hàng châu, Trung Quốc hôm 4/9, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã có cuộc hội đàm với chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Chi tiết cuộc gặp ko được tiết lộ nhưng hai nhà lãnh đạo được cho là tái khẳng định quan điểm chung rằng là sự can thiệp của bên thứ ba vào vấn đề của nước khác là không phù hợp. Trung Quốc thường sử dụng lập luận này để chỉ trích việc Mỹ can dự vào tranh chấp Biển Đông.

Quan hệ các nước

Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc. Sáng 30/8, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã có cuộc hội đàm với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Thượng tướng Thường Vạn Toàn. Hai bộ trưởng đã trao đổi thẳng thắn vấn đề còn tồn tại, đó là vấn đề Biển Đông. Đại tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định, quan điểm nhất quán của Việt Nam là hai bên cần tuân thủ nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước; giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình; tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982; nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, DOC, phấn đấu để sớm đạt được COC; không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp và nhất là không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.

Việt Nam - Singapore kêu gọi giải quyết hòa bình tranh chấp biển. Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cộng hòa Singapore, ngày 29/8, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã hội đàm với Tổng thống Tony Tan Keng Yam và hội kiến Thủ tướng Lý Hiển Long. Tuyên bố báo chí sau đó cho hay, “Hai bên khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.  Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, trong đó bao gồm việc tôn trọng đầy đủ các tiến trình pháp lý và ngoại giao, không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS năm 1982. Hai bên khẳng định ủng hộ thực hiện đầy đủ và hiệu quả DOC và hợp tác chặt chẽ hướng tới sớm xây dựng COC ở Biển Đông.

Mỹ - Ấn thúc giục các bên tuân thủ luật pháp quốc tế. Ngày 30/8 tại New Delhi, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Bộ trưởng thương mại Mỹ Penny Pritzker cùng những người đồng cấp Ấn Độ là Ngoại trưởng Sushma Swaraj và Bộ trưởng Thương mại Nirmala Sitharaman đồng chủ trì Đối thoại Chiến lược và Thương mại Mỹ - Ấn lần thứ hai. Về tranh chấp biển trong khu vực, Tuyên bố sau đối thoại cho hay, “Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải, hàng không và hoạt động thương mại không bị cản trở trong khu vực. Hai bên thúc giục các nước thực sự tuân thủ luật pháp quốc tế, được thể hiện trong UNCLOS; giải quyết hòa bình tranh chấp và kiềm chế không có hành động làm phức tạp tình hình.

Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi thăm chính thức Việt Nam. Thủ tướng nước Cộng hòa Ấn Độ Narendra Modi bắt đầu thăm chính thức Việt Nam từ ngày 2-3/9 theo lời mời của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông Narendra Modi trên cương vị Thủ tướng Ấn Độ và cũng là chuyến thăm đầu tiên của một Thủ tướng Ấn Độ tới Việt Nam sau 15 năm, kể từ năm 2001. Chuyến thăm này là dịp để lãnh đạo hai nước đánh giá những kết quả hợp tác trong thời gian qua, xác định phương hướng và biện pháp nhằm đưa quan hệ Đối tác chiến lược giữa hai nước lên một tầm cao mới, sâu sắc và toàn diện hơn.

Trung - Mỹ nhấn mạnh các lợi ích chung và kiểm soát các bất đồng. Ngày 3/9, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama trước thềm Hội nghị G20 tại Hàng Châu. Ông Tập nhấn mạnh Trung Quốc và Mỹ cần tiếp tục con đường đúng đắn là phát triển quan hệ song phương; tuân thủ nguyên tắc không xung đột, không đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng thắng. Về vấn đề Biển Đông, ông Tập khẳng định Trung Quốc tiếp tục bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển ở Biển Đông, đồng thời nhất quán giải quyết hòa bình tranh chấp thông qua tham vấn và đàm phán với các bên liên quan trực tiếp. Trung Quốc hy vọng Mỹ sẽ đóng vai trò tích cực trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. Về phần mình, Tổng thống Barack Obama nhấn mạnh tầm quan trọng đối với Trung Quốc - một bên tham gia ký kết UNCLOS - phải tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo công ước và “Mỹ sẽ cùng hợp tác với tất cả các nước trong khu vực để duy trì nguyên tắc của luật pháp quốc tế, đảm bảo hoạt động thương mại hợp pháp không bị cản trở, duy trì tự do hàng hải và hàng không. Tổng thống khuyến khích các bên giảm bớt căng thẳng, tạo điều kiện thuận lợi hướng tới giải pháp hòa bình cho tranh chấp.”

Phân tích và đánh giá

Xung đột và hợp tác tại Biển Đông” – phân tích của Stratfor

Sau khi Tòa Trọng tài ra phán quyết về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc, có 4 vấn đề đáng chú ý. Thứ nhất, mặc dù thắng Trung Quốc trong vụ kiện pháp, song Philippines đang hành động thận trọng và chủ trương mềm dẻo của Manila đã để ngỏ khả năng đạt được một thỏa thuận với đối thủ hùng mạnh (của mình) về quyền đánh bắt cá tại các vùng biển tranh chấp. Thứ hai, Philippines sẽ tiếp tục sử dụng chiến lược “cây gậy và củ cà rốt” đối với Trung Quốc tại Biển Đông, lựa chọn “không phô trương chiến thắng” tại Tòa nhằm đạt được một sự thỏa hiệp. Thứ ba, đánh bắt cá tại vùng biển xung quanh Bãi cạn Scarborough sẽ là lĩnh vực hợp tác chủ chốt được nêu trong các cuộc đàm phán song phương. Thứ tư, triển vọng giải pháp thực sự cho các cuộc tranh chấp lãnh hải tại khu vực này vẫn là “điều xa vời”, thậm chí có thể bị trì hoãn bởi chính những thỏa thuận nhằm mục đích tháo ngòi nổ căng thẳng. 

Philippines đã hành động rất thận trọng kể từ sau phán quyết hôm 12/7 của Tòa Trọng tài. Tổng thống nước này Rodrigo Duterte cho biết ông sẽ không đề cập đến phán quyết của Tòa tại Hội nghị Cấp cao ASEAN diễn ra trong tháng 9 này. Làm được như vậy, Manila có thể duy trì được những lợi ích cốt lõi của họ và đạt được một số nhượng bộ từ Bắc Kinh trong khi vẫn tiếp tục hợp tác với Nhật Bản, Mỹ và các cường quốc khác. Trong bối cảnh mới này, các cuộc đàm phán giữa Manila và Bắc Kinh sẽ chỉ xoay quanh một chủ đề cụ thể là “đánh bắt cá”.

Đến nay, các cuộc đàm phán dạng này vẫn chưa được tiến hành. Tuy nhiên, nếu đạt được thỏa thuận sẽ giúp ngăn chặn những cuộc xung đột chớp nhoáng song quyết liệt xung quanh vấn đề đánh bắt cá đồng thời có thể mở ra mô hình cho sự hợp tác tại những vùng biển khác trên Biển Đông.

Đã có tiền lệ cho sự hợp tác đánh bắt cá giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng. Ví dụ rõ nhất là thỏa thuận đạt được năm 2000 (sau 7 năm đàm phán) giữa Trung Quốc và Việt Nam tại Vịnh Bắc Bộ. Một thỏa thuận tương tự giữa Trung Quốc và Philippines sẽ không cần phải mất nhiều thời gian như thỏa thuận tại Vịnh Bắc Bộ, nhất là khi cả Manila và Bắc Kinh đều không đặt kỳ vọng vào một thỏa thuận lâu dài. Tuy nhiên, việc thiếu một tiến trình giải giáp quân sự toàn diện tại vùng biển tranh chấp sẽ khiến bất kỳ thỏa thuận nào cũng bị phụ thuộc vào tình hình địa chính trị vốn thất thường. Chẳng hạn như sau khi Trung Quốc và Nhật Bản đạt được thỏa thuận tại Biển Hoa Đông, văn kiện này đã mất hiệu lực khi căng thẳng leo thang khiến hai bên không còn mối quan tâm chung đến sự hợp tác. Nhiều khả năng Bắc Kinh và Manila sẽ không bắt đầu phân định ranh giới tại Bãi cạn Scarborough, và trên thực tế có thể sẽ là “không bao giờ”.

Tóm lại, một thỏa thuận giữa Trung Quốc và Philippines có thể sẽ chỉ đem lại hiệu quả là ngăn chặn được những cuộc chạm trán chớp nhoáng, quyết liệt (và thường ngoài dự kiến) xung quanh hoạt động đánh bắt cá, đủ để những va chạm như vậy không khuấy động những cuộc khủng hoảng rộng hơn có thể khiến vùng Biển Đông chìm sâu trong xung đột.

Quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong 25 tiếp theo sẽ diễn biến phức tạp” của Kavi Chongkittavorn

Trong 25 năm qua, quan hệ ASEAN - Trung Quốc rất đa chiều, từ lĩnh vực chính trị, an ninh cho tới văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, câu chuyện thành công lại tập trung vào lĩnh vực kinh tế. Mặc dù vậy, trong tương lai gần, quan hệ hai bên sẽ có tính chiến lược hơn, tích hợp cả môi trường đối nội, khu vực với các chương trình hợp tác.

Là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc phải thể hiện sự lãnh đạo của mình trong qúa trình hoàn thiện Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Bắc Kinh cũng phải thể hiện ý chí chính trị nhằm khuyến khích các đối tác thương mại như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và New Zealand, làm điều tương tự.

Trung Quốc đã tỏ thất vọng khi các quốc gia thành viên ASEAN còn hờ hững trước cơ hội mang lại từ các sáng kiến Con đường, Vành đai và các công cụ tài chính khác. Thực ra, Trung Quốc vẫn cần tiếp tục hợp tác với ASEAN khi biết rằng tổ chức này sẽ trình Hội nghị Cấp cao ASEAN tới thông qua Kế hoạch Tổng thể Kết nối ASEAN đến năm 2025. Việc tham vấn sâu rộng hơn là hết sức cần thiết.

Về hợp tác chính trị, an ninh, Trung Quốc và ASEAN cùng chia sẻ những giá trị chung như sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế hay tầm quan trọng của ổn định và thịnh vượng trong khu vực. Tuy nhiên, hai bên có thể có những khác biệt về cách thức tốt nhất để đạt được các mục tiêu đó. Mặc dù Trung Quốc từ lâu đã cam kết ủng hộ một cơ chế do ASEAN dẫn dắt là một phần của cấu trúc an ninh khu vực, Trung Quốc cũng đề xuất với ASEAN “Hiệp ước Láng giềng tốt, Hữu nghị và Hợp tác” năm 2013. Cho đến nay, ASEAN chưa thực sự nghiêm túc nghiên cứu ý tưởng này do lo ngại đề xuất của Trung Quốc sẽ làm yếu quy tắc ứng xử của mình. ASEAN và Trung Quốc cũng đang phối hợp xây dựng COC ở Biển Đông, dự kiến ​​sẽ được hoàn thiện vào giữa năm 2017.

Điểm yếu trong quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN là kết nối văn hoá và sự trao đổi giữa con người với con người. Trung Quốc nhận thức được điều này và đang tìm cách thúc đẩy hiểu biết và quan hệ hữu nghị tốt hơn với 625 triệu người dân của Cộng đồng ASEAN. Về vấn đề này, Bắc Kinh đã đưa ra một ý tưởng thành lập các trung tâm văn hoá tại một số Thủ đô ASEAN. Năm 2016 có chủ đề năm giao lưu Giáo dục Trung Quốc - ASEAN. Bắc kinh đã cam kết cung cấp học bổng nhiều hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới và có ít nhất 60.000 học sinh sinh viên từ các nước ASEAN đang học tại Trung Quốc. Trong thời gian tới, giao lữu giữa cộng động thanh niên và học giả cũng sẽ được tăng cường.

Tuyên bố chung của Hội nghị Cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 19, được đưa ra vào ngày 7/9, sẽ là định hướng cho quan hệ hai bên trong tương lai. Với Trung Quốc, rõ ràng việc lấy được niềm tin chiến lược của ASEAN và tăng cường, mở rộng hợp tác kinh tế ra phạm vi ngoài khu vực sẽ là hai ưu tiên hàng đầu. Với ASEAN, quan hệ trong tương lai phải là cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng luật pháp và tiến trình ngoại giao.

Hoạt động quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông: Âm mưu tạo eo biển chiến lược?” của Richard A. Bitzinger

Việc Trung Quốc âm mưu bá chủ Biển Đông ngày càng ít xuất phát từ các lợi ích kinh tế. Nguyên nhân chính là về mặt quân sự và họ muốn biến khu vực này thành một eo biển chiến lược do nước này hoàn toàn nắm quyền kiểm soát.

Điều này có thể nhận thấy thông qua các hoạt động gần đây của Trung Quốc. Thứ nhất là việc Bắc Kinh tung “ngư dân được quân sự hóa”, còn được gọi là “những người áo xanh dương nhỏ bé” tới hoạt động tại Biển Đông. Lực lượng này hoạt động ở Biển Đông và đụng độ với các tàu của các quốc gia khác, bao gồm cả tàu thương mại lần tàu hải quân. Ngư dân Trung Quốc trên thực tế là lực lượng dân quân biển của Bắc Kinh và hoạt động một cách hiệu quả như là tổ chức bán quân sự. Lực lượng này được cử đi thu thập thông tin tình báo, củng cố các tuyên bố chủ quyền. Họ không ngại kích động các cuộc đụng độ, đối đầu với các tàu khác để tạo cơ hội cho lực lượng hải quân và bán quân sự, đặc biệt là Cảnh sát Biển Trung Quốc cái cớ “bảo vệ dân thường” để can thiệp và tăng cường hiện diện ở Biển Đông. 

Hai là, chương trình xây đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa trong vài năm qua và đang bước vào giai đoạn 2: quân sự hóa trên phạm vi toàn bộ các cơ sở của mình ở Biển Đông. Hoạt động này bao gồm việc xây dựng đường băng, nhà chứa máy bay, trạm radar và đưa các loại vũ khí tới những khu vực này. Đặc biệt, đảo Phú Lâm là minh chứng rõ nhất cho sự mở rộng quân sự đáng kể của Trung Quốc ở Biển Đông những năm gần đây.

Ba là, Trung Quốc còn đang ra sức tăng cường số lượng tàu sân bay của nước này. Tại thời điểm này, Hải quân Trung Quốc mới chỉ có một tàu sân bay Liên Ninh, trên thực tế, vẫn chưa chính thức được sử dụng cho các hoạt động quân sự. Tuy nhiên, nhiều nguồn tin tiết lộ, Bắc Kinh đang ra sức tự đóng thêm các tàu sân bay, nhiều khả năng sẽ lớn hơn và được trang bị nhiều vũ khí hiện đại hơn Liêu Ninh. Thậm chí, Bắc Kinh cũng có thể trang bị cho các tàu sân bay mới hệ thống phóng điện từ, như tàu sân bay mới nhất của Mỹ USS Gerald R. Ford đang sở hữu. Nếu Trung Quốc sở hữu không chỉ một mà hẳn một hạm đội tàu sân bay, nước này sẽ thay đổi đáng kể cán cân quyền lực tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Từ 3 động thái trên, Trung Quốc đang âm mưu thống trị Biển Đông không chỉ bằng sức mạnh trên biển mà còn sức mạnh trên đất liền. Trung Quốc ngày càng đẩy mạnh triển khai sức mạnh quân sự trên đất liền ở Biển Đông theo 2 phía – trên đảo Hải Nam và đảo Phú Lâm ở phía Tây, và chuỗi đảo nhân tạo ở phía Đông - là bởi Bắc Kinh đang cố biến Biển Đông thành một eo biển.

Nói cách khác, Bắc Kinh muốn biến Biển Đông từ một tuyến đường hàng hải quốc tế, trở thành tuyến đường biển do nước này hoàn toàn nắm quyền kiểm soát, để rồi trở thành “nút cổ chai” chiến lược đối với các nước khác.

Việt Nam và bài học giúp ASEAN xử lý mối quan hệ với Trung Quốc” của Karim Raslan

Những tin tức về tình hình Biển Đông gần đây khiến dư luận hướng sự chú ý về Trung Quốc. Nhiều ý kiến cho rằng là nước láng giềng với Trung Quốc, Việt Nam vừa hợp tác kinh tế thương mại với Bắc Kinh, vừa phải đấu tranh trong vấn đề chủ quyền. Nói cách khác, người Việt Nam dường như phải gắn bó trong nghi ngờ với Trung Quốc. Bên cạnh sự gần gũi về văn hóa, Trung Quốc còn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm 30% lượng hàng hóa nhập khẩu.

Dã tâm xâm lược của Trung Quốc tồn tại hàng trăm năm qua vẫn hiện hữu. Năm 2014, các cuộc biểu tình đã nổ ra sau khi Trung Quốc kéo giàn khoan dầu khổng lồ HD981 vào vùng EEZ của Việt Nam tại Biển Đông. Hai nước cũng đã từng đụng độ tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988. Đúng như Tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ nói: “Mọi người rõ ràng rất khó hiểu được tại sao Việt Nam và Trung Quốc có thể hợp tác trên lĩnh vực kinh tế nhưng đấu tranh trên vấn đề chủ quyền. Để hiểu được điều này, bạn cần phải nhìn vào lịch sử mối quan hệ hàng nghìn năm giữa hai nước”.

Mặc dù có sự nghi ngờ lớn đối với Trung Quốc nhưng Việt Nam vẫn duy trì quan hệ chiến lược hàng đầu, thiết lập đồng minh và lựa chọn những lĩnh vực để đấu tranh với Bắc Kinh. Đúng như một cựu nhân viên tình báo cấp cao nói, điều đó có nghĩa không có gì là vĩnh viễn. Ví dụ như trường hợp của cựu thù Mỹ, “Việt Nam sẽ ủng hộ bất kỳ nước nào nếu nước đó ủng hộ chủ quyền của Việt Nam” và trên thực tế, Tổng thống Mỹ Barack Obama hồi đầu năm đã tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí từ hàng chục năm trước đối với Việt Nam. Việt Nam cũng tăng cường quan hệ kinh tế với Hàn Quốc, Nhật Bản, và Liên minh châu Âu nhằm giảm sự phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc.

Người Việt Nam (không giống như người Philipines) đã hoàn thành một công việc tuyệt vời khi khéo léo xử lý các lợi ích về kinh tế, chính trị, quân sự với Trung Quốc, giữ mối quan hệ này trong tầm tay mà không làm phật lòng người láng giềng khổng lồ.

Vậy cách thức nào là tốt cho mối quan hệ Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt là các quốc gia có cùng một mối quan hệ phức tạp với Bắc Kinh như Việt Nam? Vài người có thể nhận thấy sự không hài lòng của các quan chức Việt Nam, như Tiến sỹ Trần Công Trục, trước chia rẽ của ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Trung Quốc chắc chắn sẽ phải trả giá nếu tiếp tục có khuynh hướng cứng rắn với khu vực. Khi các nước ASEAN cân nhắc lợi ích quốc gia của mình, các nhà hoạch định chính sách của nước đó cần phải cân nhắc xem làm cách nào mà Việt Nam xử lý để duy trì được cả sự độc lập và sự tôn trọng trong thời gian dài như vậy.

Mỹ cần làm cho Trung Quốc hiểu đúng và làm đúng” của Andreas Xenachis

Hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đã khiến nhiều quốc gia trong khu vực đẩy mạnh phối hợp với Mỹ và phối hợp với nhau. Trung Quốc đã giành được một vài bãi đá nhưng họ đã đánh mất “trái tim và tâm trí của những nước láng giềng” trong khu vực.

Các nhà phân tích đã cố gắng giải thích hành động của Trung Quốc theo hai cách. Một số tập trung vào chiến thuật “cắt lát salami”, một số khác nhấn mạnh chiến lược dài hạn mà Trung Quốc tập trung thay đổi nguyên trạng để trở thành quốc gia khu vực vượt trội, chiếm ưu thế, theo đó Trung Quốc sẵn sàng trả giá ngắn hạn để đổi lại những kế hoạch dài hạn.

Tuy nhiên, hai cách giải thích đó chưa hoàn chỉnh. Còn có một cách lý giải thứ ba: sự phát triển của một hệ tư tưởng đặc biệt nguy hiểm trong giới lãnh đạo Trung Quốc. Dưới thời Chủ tịch Tập Cận Bình, giới lãnh đạo Trung Quốc có vẻ đã hình thành một kết luận rằng trong các vấn đề quốc tế, sức mạnh là then chốt và là cơ sở pháp lý duy nhất. Theo quan điểm này, để chứng minh Trung Quốc là một nước mạnh thì Trung Quốc cần phải cố gắng trở thành bá chủ để thiết lập ảnh hưởng đối với các nước khác. 

Lời cam kết của ông Tập Cận Bình về “mối quan hệ nước lớn kiểu mới” giữa Mỹ và Trung Quốc về cơ bản bắt nguồn từ chính hệ tư tưởng xem sức mạnh là yếu tố duy nhất. Những mối quan hệ dựa trên cơ sở này ngụ ý rằng vì Trung Quốc hiện giờ đang mạnh nên Mỹ cần chiều theo những hoạt động của Trung Quốc tại “sân sau” của họ mà không màng tới pháp lý hay mong muốn của các bên khác, đổi lại Trung Quốc cũng sẽ làm như vậy đối với phạm vi ảnh hưởng của Mỹ. Tất nhiên, Trung Quốc vẫn quan tâm ở một mức độ nào đó về việc được coi là một cường quốc có trách nhiệm nhưng chỉ là theo sự khôn ngoan chiến lược.

Do đó, Tổng thống tiếp theo của Mỹ cần phải định hướng chính sách ngoại giao, quân sự và kinh tế hướng tới việc làm cho giới lãnh đạo Trung Quốc tỉnh ngộ khỏi quan điểm sức mạnh là tất cả. Yếu tố cốt lõi trong chính sách này là ngăn chặn những quan điểm thiếu chính xác về Mỹ và Trung Quốc. Nhiều lãnh đạo Trung Quốc tin rằng một trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, nhân quyền và các yếu tố khác của pháp lý chỉ là thủ đoạn trang trí cho một chính sách thực dụng đầy tính toán của Mỹ. Nếu đối thoại chiến lược về sức mạnh và pháp lý không thay đổi cách suy nghĩ, hành xử của Trung Quốc thì chính quyền mới phải sẵn sàng đối đầu với sự hung hăng của Trung Quốc, sử dụng công cụ mà Trung Quốc đã bỏ qua, đó là tính pháp lý. Trung Quốc càng lấn tới bằng những biện pháp sử dụng sức mạnh thì Mỹ càng cần sẵn sàng khiến Trung Quốc phải trả giá, đặc biệt trên lĩnh vực pháp lý. Chính sách của Mỹ cần phải hướng lái Trung Quốc có lối suy nghĩ tương tự Mỹ trong các vấn đề quốc tế. 

Lịch sử cho thấy vài thập kỷ đầu sau khi một cường quốc mới trỗi dậy là giai đoạn nguy hiểm nhất đối với nhân loại. Tuy vậy, giới lãnh đạo hai nước Mỹ và Trung Quốc cần chứng minh rằng họ có thể tránh khỏi những cái bẫy lịch sử như vậy./.