I. Động thái của các quốc gia

+ Trung Quốc:

Trung Quốc tiếp tục tập trận trên biển. Cuộc tập trận hỗn hợp giữa một đoàn gồm khu trục hạm và hộ tống hạm thuộc hạm đội Nam Hải, đóng tại căn cứ Tam Á, đảo Hải Nam, thực tập tác chiến phối hợp nhiều chiến hạm được điều động theo đội hình, thay thế cho phương pháp thực tập tác chiến cũ chỉ có một chiến hạm. Các chiến hạm này ở các vị trí cách nhau hàng chục hải lý nhưng phối hợp với nhau.

Trung Quốc phản ứng việc Mỹ gia tăng hiện diện quân sự ở Phi-líp-pin. Trong tuyên bố ngắn gọn đưa ra hôm chủ nhật, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết, họ “chú ý tới các thông tin và thúc giục các bên liên quan làm nhiều hơn nữa để góp phần duy trì hoà bình và ổn định khu vực”. Tuy nhiên, các thông tin trên báo chí Trung Quốc nhấn mạnh rằng, bằng cách tăng cường tập trận quân sự giữa Philippines và Mỹ ở gần Biển Đông, Manila đã gửi đi tín hiệu sai lầm nếu họ muốn giải quyết vấn đề một cách hoà bình. “Động thái này gửi đi tín hiệu rất nguy hiểm có thể khiến Trung Quốc hiểu lầm các ý định của Mỹ và làm gia tăng những hoài nghi giữa hai nước”. Trong khi tờ Nhật báo Trung Quốc hôm chủ nhật kêu gọi chính phủ nước này trừng phạt Philippines bằng cách “làm lạnh” quan hệ kinh tế hai bên.

“Mở đầu tốt đẹp của việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông” của Trần Khánh Hồng, Viện nghiên cứu quan hệ quốc tế hiện đại Trung Quốc. Những nỗ lực mà Trung Quốc và ASEAN đã làm nhằm duy trì ổn định khu vực Biển Đông ai cũng biết. Tuy nhiên, sự can thiệp của thế lực bên ngoài vẫn tiếp tục và ngày càng mạnh mẽ. Để loại bỏ sự can thiệp của bên ngoài cần phải tăng cường lòng tin, đây chính là nguyên nhân Trung Quốc và ASEAN tổ chức SOM, thực hiện DOC và thúc đẩy tiến trình xây dựng lòng tin. Tuy nhiên, để tăng cường lòng tin giữa Trung Quốc và ASEAN trong tương lai, nhất là giữa các bên tranh chấp, cần phải vượt qua hoặc phá vỡ quan niệm “nước mạnh sẽ xưng bá”. Biển Đông phải trở thành một vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Đây là nhận thức chung của các nước ven Biển Đông, cũng phù hợp với lợi ích của các nước này. Hội nghị SOM lần thứ 4 là một khởi đầu tốt đẹp trong năm 2012, đặt cơ sở cho việc duy trì hòa bình, ổn định khu vực Biển Đông trong tương lai.

Mỹ đang sử dụng các quy định để kiềm chế Trung Quốc” của Ruan Zongze. Những luật lệ mà Mỹ đề cập là gì? (1) Về lĩnh vực an toàn hàng hải, Mỹ đang sử dụng cớ “tự do hàng hải” và sử dụng các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với một số nước khác nhằm can thiệp vào vấn đề Biển Đông. (2) Về lĩnh vực kinh tế, thương mại, Mỹ đang cố gắng tái xây dựng và tận dụng hệ thống khu vực Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay để khẳng định vị thế thống trị tại khu vực. (3) Trong lĩnh vực quân sự, Mỹ chuyển trọng tâm quân sự sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực. Hiện nay, trật tự quốc tế đang trải qua cuộc cách mạng lớn và trò chơi thiết lập các luật lệ sẽ trở thành chiến trường mới cho cả Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc cần tham gia thiết lập các luật lệ quốc tế, chủ động thiết lập các chương trình nghị sự tích cực và chủ động hơn cũng như sử dụng các quy định để bảo vệ lợi ích của chính mình.

“Kế hoạch mở rộng sự hiện diện quân sự Mỹ bị phản đối mạnh mẽ”. Kế hoạch này đã bị các nhóm trong nước phản đối mạnh mẽ nhưng lại nhận được sự ủng hộ và bảo vệ của các quan chức thuộc chính phủ Tổng Thống Benigno Aquino III. Ông Teodoro Casino, thành viên Đảng đại diện cho Bayan Muna thuộc Hạ Viện nhận định Mỹ không cần phải mở rộng hiện diện quân sự tại Phi-líp-pin và thậm chí còn kêu gọi quốc hội cần điều tra thỏa thuận đang trong kế hoạch này. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Phi-líp-pin Albert del Rosario cho rằng dù Phi-líp-pin có chấp nhận việc tăng hiện diện quân sự của Mỹ tại nước này thì điều này cũng vẫn phải phù hợp với luật của Phi-líp-pin về cấm các lực lượng nước ngoài đặt căn cứ tại nước này. Việc tăng hiện diện quân sự có thể gồm nhiều cuộc tập trận chung hơn và nhiều quân đội Mỹ di chuyển luân phiên tại Phi-líp-pin.

“Trung Quốc sẽ trở thành nước có lượng dầu dự trữ đứng thứ 2 thế giới”. Trung Quốc vừa hoàn thành việc xây dựng giai đoạn đầu kho dự trữ dầu chiến lược với dung lượng 110 triệu thùng và sẽ tăng dần lên 500 triệu thùng, tương đương với lượng dầu nhập khẩu trong 90 ngày vào năm 2020. Tới thời điểm đó, Trung Quốc sẽ trở thành nước có kho dự trữ dầu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ, nước mà hiện nay có kho dự trữ dầu là 727 triệu thùng[1].

+ Việt Nam:

“Đường lưỡi bò” làm phức tạp tình hình Biển Đông. Nhìn lại tiến trình thúc đẩy ý tưởng "gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc, người ta thấy rằng những khu vực cụ thể mà Trung Quốc đề nghị khai thác chung đều là các vùng biển nằm trong "đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, trùm lên phần lớn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. Trung Quốc lập luận rằng vùng biển trong "đường lưỡi bò” là vùng biển lịch sử của họ, do đó, phải coi đấy là "vùng biển tranh chấp”, và đã là vùng biển tranh chấp thì phải "cùng khai thác”. Như vậy, chủ trương "cùng khai thác” của Trung Quốc thực chất là "cùng khai thác” tài nguyên trong các vùng biển thuộc chủ quyền của các quốc gia khác, chứ không phải "cùng khai thác” trên vùng biển của Trung Quốc hoặc ở các vùng biển thực sự có tranh chấp. Như vậy, những yêu sách phi lý về chủ quyền của Trung Quốc theo "đường lưỡi bò” lại chính là một trong những nguyên nhân cơ bản cản trở tiến trình "gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông và càng ngày càng làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.

Nga bàn giao đủ tên lửa cho Gepard Việt Nam. Giám đốc Tổng công ty Tên lửa chiến thuật (KTRV), ông Boris Obonosov tiết lộ công ty này đã bàn giao đầy đủ số tên lửa chống tàu Kh-35E cho Việt Nam từ năm 2009-2010 trong hợp đồng được ký kết từ trước đó. 3M24 hay Kh-35 (với biến thể xuất khẩu tương ứng là 3M24E hay Kh-35E) là tên lửa chống tàu dưới âm, bay sát mặt biển do KTRV phát triển, sản xuất.

+ Philíppin:

Philíppin một lần nữa tìm kiếm hòa bình với Trung Quốc. Thay vì chỉ trích tờ “Thời báo Hoàn cầu” của Trung Quốc kêu gọi trừng phạt kinh tế chống lại Philíppin, Ngoại trưởng Albert del Rosario đã thúc giục Bắc Kinh một lần nữa nhất trí hoàn toàn với quan điểm đã định rõ của Manila về vấn đề Biển Đông, đó là giải quyết tranh chấp quần đảo Trường Sa một cách hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). Ông Rosario cho biết Chính phủ Philíppin tin chắc "Trung Quốc sẽ hoàn toàn đồng tình với quan điểm của Philíppin" về vấn đề này, và nhấn mạnh mối quan hệ của hai nước nên được thực hiện một cách bình đẳng, tôn trọng và tuân thủ chủ quyền của nhau. Trước đó, trong một thông điệp, Ngoại trưởng Rosario cho biết Trung Quốc và Philíppin đang nỗ lực giải quyết bất cứ thách thức nào với tinh thần xây dựng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng và hiểu biết.

Tàu chiến Nga thăm Philippines. Hạm đội Thái Bình Dương của Nga dẫn đầu bởi tàu khu trục Đô đốc Panteleyev đã đến thủ đô Manila hôm 31/1trong một chuyến thăm hữu nghị. Đây là chuyến thăm đầu tiên của các tàu chiến thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Nga đến Philippines sau 96 năm", thuyền trưởng tàu khu trục Đô đốc Panteleyev Roman Martov cho biết.

Philippines xoa dịu Trung Quốc về sự hiện diện quân sự Mỹ. Peter Paul Galvez, người phát ngôn Bộ Quốc phòng Philippines nhấn mạnh, kế hoạch gia tăng số quân Mỹ tại đây đơn thuần phục vụ cho việc luyện tập và đào tạo. "Chúng tôi phải được đào tạo để sử dụng thích hợp các thiết bị. Có những khái niệm mới trong hoạt động, cũng có những công nghệ mới mà chúng tôi chưa nắm rõ. Đó là lý do căn bản trong kế hoạch gia tăng sự hiện diện của Mỹ".

+ In-đô-nê-xi-a:

Indonesia hiện đại hóa quân đội. Quân đội Indonesia ra sức hiện đại hoá vũ khí chiến cụ – nỗ lực sẽ giúp đưa nước này ngang hàng với các nước láng giềng cũng như cải thiện kỹ năng nhân sự để có thể đối đầu với những thách thức trong tương lai. Tham mưu trưởng quân đội Indonesia, tướng Pramono Eddie Wilbowo, cho biết trong giai đoạn từ năm ngoái cho tới năm nay, Jakarta đã dành ra ngân sách khoảng hơn 1 tỷ rưởi đô la để mua vũ khí.

+ Ấn Độ:

Ấn Độ tăng cường vũ trang. Sở dĩ cường quốc Nam Á này phải đẩy mạnh việc tăng cường vũ trang là vì họ nhận thức rằng thiết bị quốc phòng đã lỗi thời vào lúc nhiều mối đe dọa mới xuất hiện. Nỗ lực hiện đại hóa quân đội là nhằm đối phó với đà vươn lên về mặt quân sự của hai láng giềng đồng thời là đối thủ truyền thống: Pakistan và Trung Quốc. Chính vì xuất phát từ động cơ nói trên mà tiến trình tăng cường vũ trang của Ấn Độ hiện đặt trọng tâm vào hai binh chủng hải quân và không quân, thay vì vào lục quân như trong thời kỳ trước đây. Đối với Ấn Độ, lực lượng hải quân Trung Quốc đang trở thành mối đe dọa đối với các tuyến hàng hải thiết yếu cho New Delhi trên Ấn Độ Dương, cũng như đối với các khu vực dầu khí mà nước này được Việt Nam trao quyền khai thác tại vùng Biển Đông.

+ Úc:

Biển Đông: Điểm nóng trong chiến lược quốc phòng Australia. Ngày 30/1, Bộ trưởng Quốc phòng Australia Stephan Smith thúc giục quân đội phải tăng cường lực lượng tại vùng bắc Australia; trang bị thêm tàu tấn công và đổ bộ, sẵn sàng đối phó với những bất ổn và thách thức tại châu Á. Australia đã xét duyệt việc tái bố trí quốc phòng để đi cùng nhịp với việc tái bố trí và “định vị” quốc phòng của Mỹ xem châu Á là tụ điểm quan trọng. Đầu thế kỷ 21, trọng tâm của nền kinh tế Australia là vấn đề khai thác tài nguyên phần lớn ở phía bắc. Do đó, sự hiện diện quan trọng của quốc phòng, của hải quân, không quân, bộ binh là để bảo vệ thực tế kinh tế này. Ngoài ra, đây còn là vấn đề địa chính trị. Miền bắc và tây bắc Australia nhìn thẳng về Biển Đông và tiếp giáp với Ấn Độ Dương. Australia coi miền bắc là quan trọng vì đấy là điểm nóng có thể xảy ra xung đột ở Biển Đông.

II. Quan hệ các nước

Mỹ muốn Việt Nam là đối tác chiến lược. Trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam, ông Kurt Campbell, trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á – Thái Bình Dương, khẳng định Mỹ coi trọng quan hệ với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời mong muốn thúc đẩy hơn nữa quan hệ với Việt Nam theo hướng đối tác chiến lược. Phía Mỹ ủng hộ giải quyết các tranh chấp trong khu vực, trong đó có Biển Đông, bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc, tuân thủ DOC và sớm tiến tới COC.

“Úc dường như không dễ đứng giữa Mỹ và Trung Quốc”. Năm 2012 đánh dấu 40 năm thành lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc – Úc. Khi Mỹ chuyển quan tâm chiến lược sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Úc sẽ phải xử lý quan hệ với hai cường quốc trong khu vực này. (1) “Quan hệ hữu nghị mới không thể xóa bỏ được các mối quan hệ cũ” của Neil Orme, Trợ lý Bộ Trưởng về chính sách Quốc tế, thuộc Bộ Quốc phòng Úc. Trung Quốc và Úc đã có 15 năm tăng cường hợp tác chặt chẽ, đặc biệt đối thoại chiến lược với Trung Quốc sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian tới. Trong khi đó Úc vẫn có quan hệ an ninh hiệu quả và quan hệ kinh tế chặt chẽ với Mỹ bởi quan hệ an ninh Úc – Mỹ đã có lịch sử rất lâu đời. Quan hệ giữa Úc và Mỹ không phải là vấn đề lựa chọn cũng không phải là trò chơi có tổng bằng không mà đối với Úc đây là trường hợp cân bằng tất cả các quan hệ khác. Quan hệ Mỹ - Trung sẽ là nền tảng cơ sở đối với an ninh kinh tế toàn cầu cũng như an ninh quân sự tại châu Á – Thái Bình Dương. Úc rất mong muốn là bạn của cả Trung Quốc và Mỹ. (2) “Úc không chắc chắn về cường quốc mới Trung Quốc” của Rory Medcalf, giám đốc chương trình an ninh quốc tế tại Viện nghiên cứu chính sách quốc tế Lowy. Sự trỗi dậy và ảnh hưởng của Trung Quốc có thể nói là vẫn chưa chắc chắn. Có nhiều nhận thức khác nhau trong chính phủ không chỉ ở Úc mà nhiều nước tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này bắt nguồn từ thực tế đơn giản là chúng ta không biết một Trung Quốc mạnh lên sẽ hành xử thế nào trong tương lai? Điều mà Úc muốn duy trì hiện nay là vừa tiếp tục quan hệ tốt với Trung Quốc vừa tiếp tục liên minh với Mỹ.

Mỹ - Philippines nối lại 'duyên xưa'? Hai mươi năm sau ngày thượng viện bỏ phiếu nói "không" đối với sự hiện diện của các căn cứ quân sự Mỹ, Philippines lại "nóng" lên trước câu hỏi liệu có cho phép các căn cứ này quay trở lại. Với tuyên bố tìm kiếm thêm các cuộc tập trận chung với Mỹ cũng như có thể cho phép luân phiên số lượng quân Mỹ lớn hơn của Ngoại trưởng Albert del Rosario cuối tuần trước, rõ ràng Manila đang "bật đèn xanh" cho Washington trong nỗ lực quay trở lại Đông Nam Á. Trong lúc Philippines "đánh tiếng" thì tàu trang bị tên lửa dẫn đường USS Wayne E. Meyer đã ghé thăm Manila còn một tàu chiến khác USS Chafee xuất hiện ở Cebu miền Trung nước này trong "chuyến viếng thăm thông thường". Và như vậy, rõ ràng Trung Quốc không thể không lo ngại trước cuộc gặp giữa Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ với đồng nhiệm Philippines vào tháng 3 tới tại Washington sau khi Mỹ đưa quân tới Australia và cử tàu tới Singapore.

Trung Quốc xoa dịu Philippines về vấn đề Biển Đông. Chính phủ Trung Quốc kêu gọi "nỗ lực xây dựng hòa bình" tại Biển Đông sau khi Manila mời Mỹ đưa thêm quân vào Philippines và tổ chức tập trận thường xuyên hơn. Trong một bức điện thư gửi cho AFP đề ngày 29/1, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố "hy vọng hai bên liên can sẽ nỗ lực nhiều hơn về hướng hòa bình và ổn định trong khu vực." Phản ứng của Chính phủ Trung Quốc trái ngược hẳn với lời lẽ gay gắt của bài xã luận trên Thời báo Hoàn Cầu. Tác giả cho rằng Bắc Kinh cần phải dùng "đòn bẩy kinh tế" trừng phạt Philippines cũng như bất kỳ quốc gia Đông Nam Á khác, để cho họ thấy rằng "dựa vào Mỹ để đối trọng với Trung Quốc không phải là thượng sách."

III. Phân tích và đánh giá

Nguy cơ từ Biển Đông. Theo đánh giá của John Ruwitch, phóng viên Reuters, căng thẳng với Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông vẫn là mối nguy hiểm lớn nhất cho chính trị ở Việt Nam. Ấn Độ dường như nay cũng bị lôi kéo vào cuộc tranh chấp này, khiến nguy cơ còn bị đẩy lên cao hơn nữa. Cả Hà Nội và Bắc Kinh đều không muốn xảy ra xung đột vũ trang trên biển, bởi vậy mà giọng điệu hai bên đều đã giảm gay gắt, nhưng dù thế nào thì chủ đề này cũng phức tạp hóa quan hệ song phương. Thách thức của Việt Nam là làm sao giữ được cân bằng mối quan hệ vô cùng quan trọng nhưng cũng rất dễ bị thương tổn với Trung Quốc trong bối cảnh dư luận người dân ngày càng nghi kỵ về nước láng giềng phương Bắc. Ngoài ra, cũng cần theo dõi hành động của Hoa Kỳ trong vấn đề Biển Đông, vì nó có thể ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của các nước trong khu vực.

Hiểu về chính sách bám trụ ở châu Á của Chính quyền Obama”. Đây là tiêu đề cuộc thảo luận do Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc John L. Thornton và Trung tâm nghiên cứu chính sách Đông Á tại Viện Brookings tổ chức hôm 31/1. Nhìn chung các diễn giả đánh giá khá tích cực về chính sách châu Á của Chính quyền Obama, và cho rằng chính sách này đã được thể hiện rõ nét qua chuyến thăm của Tổng Thống Obama tới khu vực tháng 11/2011 bao gồm các bước: i) tham gia Hội Nghị Cấp cao Đông Á và nhấn mạnh vấn đề tranh chấp ở Biển Đông tại Hội Nghị này cũng như qua chuyến thăm của Ngoại Trưởng Hillary Clinton tới Philippine; ii) tuyên bố thỏa thuận khung về Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với 8 nước; iii) đưa quân trở lại Úc (trên cơ sở luân phiên) để huấn luyện và diễn tập, iv) nối lại quan hệ với Myanmar. Các học giả cũng cho rằng không nên hiểu đây là chính sách nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc và không nên gọi chính sách của Mỹ ở khu vực là “bám trụ” mà nên gọi là tái-cân bằng trở lại khu vực.

“Phi-líp-pin và Mỹ phủ nhận thỏa thuận xây dựng căn cứ quân sự mới”. Ngay sau khi các phương tiện truyền thông đưa tin Mỹ và Phi-líp-pin tìm cách củng cố quan hệ quân sự nhằm kiềm chế Trung Quốc, cả Manila và Washington đều cho rằng khả năng mở căn cứ quân sự mới của Mỹ tại Phi-líp-pin là rất thấp. Đô đốc hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ, Robert Willard, ngày 27/1/2012 phát biểu với các phóng viên rằng “hiện nay vẫn chưa có quan điểm hoặc mong muốn nào về việc Mỹ tìm kiếm các lựa chọn mở căn cứ quân sự tại nơi nào khác trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.” Trong khi đó, Ramon Carandang, thư ký Văn phòng hoạch định chiến lược và phát triển thông tin của Tổng thống ngày 29/1 cho biết Manila không có ý định cho phép Mỹ thiết lập căn cứ quân sự như tại Clark và Subic.

Biển Đông: Sinh sự sự sinh. Trung Quốc theo đuổi chính sách lấn tới từng bước, thông qua phối hợp chính sách “lục hoãn hải khẩu” (trên đất liền hòa dịu, ngoài biển tranh chấp), “tiến ba bước, lùi hai bước” (được một bước). Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính bắt đầu từ phố Wall mùa Thu 2008, thấy Mỹ suy yếu so với trước, giới quân sự Trung Quốc bước ra khỏi thời kỳ “dấu mình chờ thời”, làm cho ba vùng biển ở Đông Á liên tục dậy sóng. Mỹ đã nắm thời cơ để trở lại châu Á, chiến lược quốc phòng mới của Mỹ, tuyên bố ngày 5/1, đã xác định châu Á-Thái Bình Dương thành trọng điểm chiến lược toàn cầu của Mỹ. Để tạo sự cân bằng ổn định cho khu vực, một số các nước nhỏ yếu ở Đông Nam Á tìm cách “giữ chân” Mỹ lại Đông Nam Á. Đó là bản chất của những thỏa thuận năm ngoái giữa Mỹ với Úc và Singapore và năm nay với Philippines. Năm 2012 và những năm tiếp theo sẽ chứng kiến một vòng mới của cuộc chạy đua hiện đại hóa quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương. Người ta thấy điểm khởi đầu, nhưng chưa ai thấy điểm kết thúc của quá trình ấy.

Khi Mỹ "đu dây" ở Đông Nam Á của Rodney Jaleco. Philippines và Mỹ đang "đu dây" một cách thận trọng. Gần bốn thập niên sau khi buộc phải rút khỏi Việt Nam và 20 năm sau khi đóng cửa căn cứ Subic, người Mỹ đang cố gắng trở lại Đông Nam Á vì lo lắng trước những tham vọng của Trung Quốc trong khu vực. Vòng hai cuộc đối thoại chiến lược giữa Philippines và Mỹ đã kết thúc cuối tuần trước. "Trong suốt cuộc hội đàm, Mỹ và Philippine đã tái xác nhận các cam kết thực thi Tầm nhìn Tuyên bố Manila thông qua một liên minh mạnh mẽ và rộng mở... Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp ước phòng thủ chung như là nền tảng cho liên minh... Chúng tôi nhất trí hợp tác sâu rộng trong vấn đề an ninh hàng hải", một phần thông cáo chung cho biết. Theo tiết lộ của một quan chức tham dự cuộc họp, dấu hiệu có lẽ rất đáng lưu ý trong hội đàm là thậm chí Trung Quốc không hề được nhắc tên mặc dù có những cuộc thảo luận về vấn đề an ninh hàng hải. Tranh chấp ở Biển Đông dường như trở thành vấn đề nội bộ với Philippines. Tuy nhiên, vị quan chức cho biết, ông "cảm nhận" rằng, "hợp tác an ninh hàng hải" - cách gọi chuyện Biển Đông - là có liên quan, Mỹ dường như đánh tín hiệu cho thấy họ cần Philippines cũng giống như Philippines cần Mỹ bảo vệ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Biển Đông dậy sóng. Các tranh chấp vô cùng phức tạp ở Biển Đông đã được đơn giản hóa một cách nguy hiểm. Với rất nhiều tranh luận, có ba lý do tại sao các tranh cãi tại đây ngày càng trở nên gay gắt. Đầu tiên là quan hệ Hoa Kỳ-Philippines được “tăng cường” nhằm thỏa thuận các vấn đề quốc phòng trong bối cảnh được xem như là một “trục mới” của Hoa Kỳ trong chiến lược ở châu Á. Thứ hai, cả Philippines và Việt Nam có thể sẽ sớm bắt đầu khai thác dầu mỏ tại đây. Trung Quốc không muốn sự kiện đó xảy ra vì việc này sẽ thiết lập các tiền lệ cho những nước còn lại. Thứ ba và quan trọng nhất, vị trí của Trung Quốc tiếp tục làm các nước khác lo ngại. Cho đến nay, bản đồ 9 đoạn thật sự không rõ ràng và không biết Trung Quốc dựa vào căn cứ nào để đưa ra các tuyên bố đó. “Đột phá” mà các bên đã đạt được hồi cuối tháng Bảy vừa qua trông vẫn giống như một chiến thuật đang bị trì hoãn. Vì các giải quyết trong các vụ tranh chấp cho tới thời điểm đó vẫn chưa rõ ràng, và cũng không có cơ chế nào được đưa ra thảo luận nhằm hướng đến một giải quyết chung. Trung Quốc dường như đã tính toán kỹ vấn đề này, mặc dù tất cả các quốc gia liên quan trong vùng đang ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, nhưng Trung Quốc vẫn ở thế thượng phong vì họ có khả năng chi tiêu quân sự nhiều hơn. Vì vậy, rất có thể là Hoa Kỳ, với lực lượng hải quân hùng mạnh nhất và quan tâm đến việc tuân thủ các quyền tự do hàng hải và thương mại, sẽ tham gia nhiều hơn như bài báo của CNAS đã nêu, “chiến lược để xác định tương lai của lãnh đạo Hoa Kỳ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Trung Quốc, sau khi những gì đã xảy ra, có vẻ vẫn quyết tâm đưa các tuyên bố quyền lợi của họ ra để tiếp tục thử nghiệm.

Phi-líp-pin cân nhắc về sự hiện diện quân sự của Mỹ. Theo lời người phát ngôn Lầu Năm Góc hôm 26 tháng 1, các quan chức quốc phòng Mỹ và Phi-líp-pin đã gặp mặt vào cuối tuần trước để thảo luận việc tăng cường hợp tác trong một loạt các vấn đề an ninh, bao gồm chống khủng bố, an ninh biên giới và tập trận. Cuộc thảo luận diễn ra trong bối cảnh Mỹ tái can dự vào khu vực Châu Á Thái Bình Dương cũng như Trung Quốc nỗ lực khẳng định các yêu sách hàng hải ở Thái Bình Dương, đặc biệt là Biển Đông. Khi Trung Quốc tăng cường các hành động nhằm khẳng định quyền lãnh thổ trong các khu vực tranh chấp trên Biển Đông, sự thiếu hụt lực lượng vũ trang Phi-líp-pin trong việc tuần tra và bảo vệ những yêu sách của nước này càng được thể hiện rõ. Trong khi chính phủ phần nào đang nỗ lực phát triển hệ thống và năng lực của lực lượng vũ trang, với tầm nhìn hướng tới việc tuần tra hàng hải trên biển và trên không, Manila cũng đang trông đợi vào Mỹ nhằm giúp cân bằng với các hoạt động của Trung Quốc. Tuy nhiên, Manila sẽ như đi trên một sợi dây, nước này không muốn phá hỏng mối quan hệ kinh tế quan trọng với Trung Quốc, cũng không muốn dấy lên dư luận trong nước, ở đó còn tồn tại nhiều ý kiến phản đối sự đóng quân của quân đội nước ngoài – đặc biệt là Mỹ – trên đất của Phi-líp-pin.

Canh bạc Biển Đông của Bắc Kinh của Will Rogers. Bắc Kinh dường như đang đặt cược gấp đôi vào ván bài Biển Đông. Tại sao? Phần lớn là bởi nước này muốn bảo đảm quyền tiếp cận đối với nguồn hiđrocabon tiềm năng nằm sâu dưới đáy biển như dầu và khí đốt tự nhiên – nhiều người đã mô tả Biển Đông như Vịnh Péc-xích thứ hai. Trong khi có những khác biệt đáng kể giữa hai khu vực – tính dễ tiếp cận đối với các nguồn nhiên liệu hóa thạch và giá thành của việc khai thác – ở đây có sự tương đồng hữu ích để hiểu tại sao Trung Quốc coi khu vực này có tính chất quyết định đối với lợi ích cốt lõi của mình. Nhưng thực tế, Bắc Kinh có thể đã đánh giá quá cao tầm quan trọng chiến lược của dầu và khí đốt tự nhiên trong khu vực – và đang nhận lấy những rủi ro không cần thiết có thể phá hoại sự trỗi dậy hòa bình của nước này. Liệu nguồn hiđrocabon ở Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược hay không, nhận thức của Bắc Kinh có vẻ như chúng mang tính chất sống còn. Do vậy, không hề ngạc nhiên khi Trung Quốc thực hiện cách tiếp cận tổng không ngày càng tăng để bảo vệ quyền tiếp cận đối với nguồn tài nguyên này, hiếu chiến hơn với các nước láng giềng mà nước này nghi ngờ đang cố tình khai thác dầu và khí đốt tự nhiên. Nhưng những nỗ lực của Bắc Kinh có thể sẽ trở nên vô ích nếu xu hướng năng lượng tiếp tục được triển khai như dự kiến và đặc biệt là nếu Biển Đông không có nhiều dầu (đó là nói như vậy). Kết quả là, sự quyết đoán tiếp tục của Trung Quốc ở Biển Đông có thể làm tổn hoại tuyên bố của nước này về sự trỗi dậy hòa bình đồng thời củng cố lời kêu gọi từ các quốc gia như Việt Nam và Phi-píp-pin về việc Hoa Kỳ thúc đẩy hơn nữa sự hiện diện quân sự trong khu vực. Có thể bước đi quan trọng nhất trong ngắn hạn mà Hoa Kỳ có thể thực hiện nhằm giảm bớt những căng thẳng trong khu vực là thúc đẩy thông điệp rằng những nguồn năng lượng đó không giá trị như Bắc Kinh hằng tin tưởng. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ có thể khuyến khích các quốc gia Đông Nam Á hướng tới một nỗ lực đa phương thông qua quan hệ đối tác như Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương để khảo sát nguồn nhiên liệu hóa thạch, giải quyết dứt điểm tình trạng không xác định được trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên nằm dưới đáy đại dương. Có thể sau đó Bắc Kinh sẽ nhận ra rằng sự đặt cược vào Biển Đông là việc mà nước này không có khả năng thực hiện.

Mỹ, Trung Quốc và những diễn biến ở Đông Nam Á của D.S. Rajan. “Mỹ quay trở lại Châu Á” là một tiền đề mới chi phối chiến lược đối ngoại của Washington. Tổng thống Obama đã khẳng định điều này thông qua tuyên bố trong bài phát biểu của mình trước Quốc hội Úc vào 17 tháng 11 năm 2011 rằng “Không còn nghi ngờ gì nữa: Tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong thế kỷ 21, Mỹ sẽ toàn tâm toàn lực nhập cuộc và đây là một quyết định có tính toán và mang tính chiến lược”. Có một số khác biệt cơ bản về lập trường giữa Mỹ và Trung Quốc, điều đó đã ảnh hưởng đến vị thế chiến lược ở Đông và Đông Nam Á. Quan điểm của Mỹ cho rằng trường hợp tranh chấp Đảo Senkaku thuộc phạm vi ảnh hưởng của hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật, đang được xem là thách thức nghiêm trọng đối với Bắc Kinh. Ví dụ thứ hai là luận điểm của Mỹ cho rằng tranh chấp ở Biển Đông nên được giải quyết thông qua các nỗ lực đa phương. Trung Quốc đã kịch liệt phản đối điều này với luận điểm trái ngược rằng vấn đề đó phải được giải quyết một cách song phương.

 Bản PDF tại đây

 


[1] Thời báo Hoàn Cầu ngày 30/1