Trong năm 2024, Trung Quốc và Indonesia cho biết đã đạt được “hiểu biết chung quan trọng về việc cùng phát triển ở những khu vực có yêu sách chồng lấn”.
[1] Ngày 6 tháng 2 năm 2025, Trung Quốc và Brunei đã công khai Tuyên bố chung về việc thúc đẩy quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược hướng tới Cộng đồng chung vận mệnh Trung Quốc – Brunei
[2] sau cuộc hội đàm của Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình với Quốc vương Brunei Haji Hassanal Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah. Trong Tuyên bố chung, hai bên cam kết hợp tác dầu khí và tài nguyên trên biển với cách diễn đạt, ngôn ngữ mập mờ, có thể hiểu theo nhiều hướng khác nhau. Bài viết này tập trung vào phân tích nội dung cùng phát triển trong Tuyên bố chung Trung Quốc-Brunei.
Chủ tịch Tập Cận Bình bắt tay Quốc vương Brunei Haji Hassanal Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào thứ năm. (China Daily) Nội dung mới về cùng phát triển trong Tuyên bố chung 06/02/2025
Tuyên bố chung năm 06/02/2025 giữa Trung Quốc và Brunei thể hiện mức độ cam kết sâu rộng hơn nữa của hai quốc gia trong việc làm sâu sắc thêm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược. Tuyên bố tập trung vào cam kết thúc đẩy hơn nữa thương mại song phương, khuyến khích đầu tư lẫn nhau và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực như năng lượng, cơ sở hạ tầng, nông nghiệp và kinh tế số. Bên cạnh những nội dung về hợp tác kể trên, Tuyên bố chung năm 2025 dành riêng 02 khổ để nói về hợp tác trên biển, cụ thể:
- Cả hai bên đều bày tỏ sự hài lòng với những tiến triển trong hợp tác năng lượng. Họ cũng nhất trí hỗ trợ các doanh nghiệp của mỗi nước hợp tác trên cơ sở thương mại trong các lĩnh vực tài nguyên dầu khí trên biển, phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Hai bên cũng nhất trí hợp tác trong việc phát triển các nguồn tài nguyên trong các khu vực/lĩnh vực đã thỏa thuận chung (nguyên gốc: “mutually agreed areas”), trên cơ sở không gây phương hại đến lập trường pháp lý của mỗi nước theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982.
Các nội dung tại Khổ 11 về cơ bản đã được nhắc đến trong Tuyên bố chung năm 2018 và 2013 liên quan đến khuyến khích các công ty của hai bên hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí nhưng không được coi là phương hại đến lập trường và quyền của các bên. Câu chữ trong Khổ 12 của Tuyên bố chung năm 2025 giữa Trung Quốc và Brunei về việc hợp tác khai thác tài nguyên tại “khu vực được thỏa thuận chung” là nội dung mới, không có trong những Tuyên bố chung trước đây giữa hai nước vào năm 2018
[3] và 2013
[4]. Đáng chú ý, hai bên không đề cập chi tiết cụ thể về vị trí của “khu vực được thỏa thuận chung”. Thuật ngữ này cũng không có trong quy định tại UNCLOS.
Điều 74 và 83, khoản 3 của UNCLOS quy định “trong khi chưa đạt được thỏa thuận theo khoản 1, các quốc gia liên quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, nỗ lực hết sức mình để đạt được các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không làm phương hại hay cản trở việc đi đến một thỏa thuận phân định cuối cùng”. Mục đích của các điều khoản này là thúc đẩy việc thỏa thuận một số các biện pháp hợp tác tạm thời khai thác và sử dụng chung tài nguyên và hạn chế hoạt động đơn phương của các quốc gia trong khu vực có yêu sách chồng lấn. Các biện pháp dàn xếp tạm thời này chỉ áp dụng trong quá trình các quốc gia phân định ranh giới các vùng biển chồng lấn ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng chưa đạt được kết quả phân định cuối cùng. Với trường hợp của Trung Quốc và Brunei, rõ ràng Trung Quốc không có vùng biển nào hợp pháp chồng lấn với Brunei trên Biển Đông do yêu sách biển của nước này không phù hợp với luật quốc tế. Do đó, ngôn ngữ của Tuyên bố chung đặt ra câu hỏi về khả năng Brunei chấp nhận yêu sách Đường lưỡi bò trái với Công ước Luật biển UNCLOS 1982. Liệu “khu vực được thỏa thuận chung” có phải là khu vực có yêu sách chồng lấn?
Thực tiễn hợp tác biển giữa Brunei và Trung Quốc
Trong tuyên bố chung 11/10/2013, Brunei và Trung Quốc cam kết khuyến khích quan chức hai nước nghiên cứu về các khía cạnh khác của thăm dò và khai thác chung nguồn tài nguyên dầu khí giữa các doanh nghiệp hai nước trên cơ sở các nguyên tắc trong Khổ 10 Tuyên bố chung ngày 5/4/2013.
[5] Cũng trong năm 2013, hai bên đã thiết lập liên doanh giữa Tập đoàn Dầu khí ngoài khơi Trung Quốc và Công ty Dầu khí Quốc gia Brunei. Mặc dù các tuyên bố chung 2018 và 2025 ghi nhận “sự hài lòng” về hợp tác trong lĩnh vực dầu khí/năng lượng, các tác giả không tìm thấy thông tin và đánh giá cụ thể, công khai về hợp tác cùng khai thác dầu khí ngoài khơi giữa Brunei và Trung Quốc. Các cơ quan chính phủ của Trung Quốc và Brunei cũng không công bố các thông tin, giải thích thêm về đánh giá, cam kết trong Tuyên bố chung. Nhìn vào lịch sử hợp tác công khai giữa Trung Quốc và Brunei, có thể thấy lĩnh vực chủ yếu đều là lĩnh vực dầu khí hạ nguồn (lọc hóa dầu). Tuy nhiên, Trung Quốc thường nêu mô hình hợp tác với Brunei là “hình mẫu” để thúc đẩy các quốc gia khác chấp nhận “cùng khai thác” ở các khu vực địa lý mà Trung Quốc cho là “có tranh chấp”. Chính phủ Brunei cũng khá “kín tiếng” về vấn đề này, hạn chế đưa ra các bình luận về các diễn biến trên Biển Đông. Trên cơ sở đó, đa số các nhà quan sát cơ bản nhận định rằng ngôn ngữ của tuyên bố chung đó chỉ mang tính chất “biểu tượng”, không có hợp tác thực chất về thăm dò và khai thác dầu khí ngoài khơi chung giữa hai nước.
Tính toán của các bên
Qua quan sát, có thể thấy các bên đều có thể có các toan tính khác nhau trong vấn đề hợp tác khai thác dầu khí trên Biển Đông. Lập trường các bên còn khác xa nhau, đặc biệt đối với những vấn đề liên quan đến áp dụng UNCLOS 1982 để xác định các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia và các khu vực chồng lấn. Trung Quốc vẫn chưa ép được các bên liên quan chấp nhận yêu sách Đường chín đoạn phi lý, nhưng rất mong muốn có những thắng lợi về “chính trị”. Ngược lại, do quá phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và không có đủ năng lực để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, Brunei phải chấp nhận một số thỏa hiệp mang tính chất hình thức nhưng không ảnh hưởng đến các lợi ích thực chất. Theo đó, hai bên có thể đã phải đàm phán để tìm ra một công thức để đảm bảo lợi ích của các bên, chấp nhận một số linh hoạt để thể hiện “tiến triển” nào đó, nhưng không vi phạm các nguyên tắc cơ bản.
Theo đó, Ding Duo, Viện Nghiên cứu Quốc gia về Biển Đông ở Hải Nam, Trung Quốc, cho biết thỏa thuận về hợp tác trên biển là một “bước tiến nhỏ”, nhưng phần lớn sẽ chỉ mang tính “tượng trưng” nếu không có sự đồng thuận cụ thể giữa hai nước
[6] và khẳng định cách diễn đạt của tuyên bố thể hiện cách tiếp cận thận trọng của hai nước. Thay vì sử dụng những từ như “khu vực chồng lấn” hoặc “tranh chấp”, thuật ngữ “khu vực được thỏa thuận chung” mang tính trung lập hơn và làm giảm bớt những hàm ý chính trị hoặc pháp lý có thể thu hút sự chú ý quá mức hoặc sự can thiệp từ thế giới bên ngoài. Ông Ding Duo cho biết thêm thực tế hai bên vẫn còn những khác biệt nghiêm trọng về quan điểm pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến việc hợp tác khai thác tài nguyên dầu khí với nhau trong “khu vực được thỏa thuận chung”. Euan Graham, Quyền Giám đốc Chiến lược Quốc phòng và An ninh Quốc gia, Viện Chính sách Chiến lược Úc cũng đồng tình rằng việc hợp tác tại một khu vực như vậy không tồn tại mà chỉ mang tính chất biểu tượng.
[7] Đánh giá về vấn đề này, Shahriman Lockman, chuyên gia của Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Malaysia, bày tỏ quan điểm rằng Khổ 11 và Khổ 12 của Tuyên bố chung giữa Trung Quốc và Brunei năm 2025 là cách diễn đạt này thể hiện sự khéo léo của Brunei trước quốc gia lớn như Trung Quốc.
[8] So sánh với các quốc gia khác, tuyên bố chung giữa Trung Quốc và Malaysia
[9] không nhắc tới nội dung khai thác chung nhưng Tuyên bố với Indonesia cũng xuất hiện cụm từ gây tranh cãi “cùng phát triển ở các khu vực có yêu sách chồng lấn”
[10]. Việc Indonesia chấp nhận “ngôn ngữ” bị nhiều chỉ trích, cho rằng Indonesia đã đi trái với nguyên tắc và lập trường cơ bản, ảnh hưởng đến quyển và lợi ích hợp pháp của nước này theo UNCLOS. Trong bối canh đó, cách dùng từ ngữ mập mờ, chung chung của Brunei được cho là “khéo léo”. Bill Hayton, nghiên cứu viên tại Viện Chatham House, đã nhấn mạnh rằng Khổ 12 ghi nhận hợp tác trên cơ sở không ảnh hưởng đến lập trường pháp lý của các quốc gia theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982. Ông cho rằng nếu Trung Quốc chấp nhận như vậy thì đó là chiến thắng cho Brunei.
[11] Suy yếu UNCLOS
Mô hình thỏa thuận của Brunei và Trung Quốc thể hiện sự linh hoạt nhất định giữa hai bên trong tiếp cận tranh chấp phức tạp trên biển Đông. Với việc thòng thêm các điều kiện như “phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và tuân thủ các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi” hay “trên cơ sở không gây phương hại đến lập trường pháp lý của mỗi nước theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS 1982”, Brunei tìm cách hạn chế các diễn giải pháp lý bất lợi mà vẫn có thể nhìn nhận là “một bước tiến” tính biểu tượng. Cụm từ “in the mutually-agreed areas” không hàm nghĩa việc thừa nhận yêu sách của Trung Quốc. Việc hạ thấp hợp tác từ mức độ giữa các quốc gia xuống giữa các công ty dầu khí cũng phần nào làm giảm tính chính trị của các hoạt động liên quan nếu có. Không loại trừ khả năng trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục lồng ghép những cụm từ có ý nghĩa mập mờ, lấp lửng như vậy trong tuyên bố chung với các quốc gia Đông Nam Á. Trung Quốc đã và đang linh hoạt hơn trong cách diễn đạt từ ngữ, tạo ra điều kiện cho mỗi bên có thể diễn giải theo các cách thức khác nhau, những cụm từ này tuy không phải luật nhưng lại “gần giống luật”. Mặc dù đây có thể là một mô hình có giá trị tham khảo, nhưng việc tìm kiếm các khuôn khổ ngoài UNCLOS có thể làm suy yếu và ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của Công ước này.
Nguyễn Bùi Hồng Minh, Vũ Hải Đăng,
Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao
[1] Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia về việc thúc đẩy quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện và Cộng đồng Trung Quốc-Indonesia cùng chung tương lai tại Bắc Kinh, ngày 9 tháng 11 năm 2024, truy cập ngày 11/2/2025, tại:
[3] Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Vương quốc Brunei Darussalam tại Bandar Seri Begawan, ngày 19 tháng 11 năm 2018, truy cập ngày 10/2/2025, tại:
[4] Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Vương quốc Brunei Darussalam tại Bắc Kinh, ngày 5 tháng 4 năm 2013, truy cập ngày 10/2/2025, tại:
[9] Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Malaysia về việc làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện hướng tới Cộng đồng Trung Quốc-Malaysia cùng chung vận mệnh tại Kuala Lumpur, ngày 20 tháng 6 năm 2024, truy cập ngày 11/2/2025, tại:
[10] Tuyên bố chung giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Indonesia về việc thúc đẩy quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện và Cộng đồng Trung Quốc-Indonesia cùng chung tương lai tại Bắc Kinh, ngày 9 tháng 11 năm 2024, truy cập ngày 11/2/2025, tại: