_______________________________________

 

Cải cách hành chính đã trở thành một chương trình cấp thiết, thường xuyên, lâu dài và bền bỉ của các Chính phủ ở nhiều khu vực nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng trong mấy thập kỷ gần đây. Đối mặt với nhu cầu kinh tế và tiến bộ xã hội ngày càng tăng lên, và trước mong muốn ngày càng lớn về chất lượng cuộc sống tốt đẹp hơn của mọi tầng lớp dân cư, nhiều Chính phủ đã chủ động thực hiện những sáng kiến cải cách để đạt được hiệu quả, hiệu suất và khả năng đáp ứng trong hệ thống hành chính của mình. Sau những chuyến nghiên cứu, khảo sát ngắn hạn về Hành chính công tại Đại học Diliman (thuộc Đại học Quốc gia Phi-lip-pin - National University of Philippine) trong năm 1996, năm 2001, và đúc kết qua các tài liệu, sách báo, sản phẩm khác của truyền thông mới đây về Phi-lip-pin, tác giả xin nêu một số kết quả nghiên cứu bước đầu về chủ đề này. Tóm lược những nét lớn cải cách hành chính của Phi-lip-pin từ khi giành được độc lập đến nay

Cải cách hành chính ở Phi-lip-pin bắt đầu sau thắng lợi chính trị, đó là giành độc lập chính thức năm 1946. Thắng lợi này chủ yếu do tách những nhu cầu và đòi hỏi của Chính phủ mới có chủ quyền khỏi những yêu cầu của hệ thống chính quyền thực dân đã từng đô hộ Phi-lip-pin. Nhìn chung, một quốc gia mới giành được độc lập phải tốn rất nhiều thời gian và nguồn lực để đẩy mạnh thống nhất đất nước (về mọi mặt: hành chính, kinh tế-xã hội, giáo dục, nhận thức cộng đồng…) và tổ chức bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả, tiến bộ. Thực tế đòi hỏi nhà nước đó phải vừa phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội nước mình, lại vừa tương thích để có thể dần dần hội nhập với cộng đồng quốc tế. Chiến lược lâu dài của Phi-lip-pin là tiến tới thiết lập một nền công vụ quốc gia hiện đại và nền hành chính phát triển. Nhiệm vụ chính của Chính phủ được xác định là duy trì luật pháp, trật tự xã hội và thu thuế.

Có thể nói ngay từ 1950 trở đi, Chính phủ đã thực hiện một số biện pháp như liên tục tuyển dụng nhân sự cho nền công vụ địa phương, thiết lập các phòng, ban, các cơ quan, áp dụng các thiết chế mới của chính quyền địa phương và phương pháp, thủ tục mới. Những bước cải cách hành chính đầu tiên ở Phi-lip-pin được định hướng theo ý thức hệ của quan niệm Nhà nước pháp quyền và bộ máy hành chính theo mô hình “Vê-be” (Weber - nhà triết học và xã hội học người Đức). Theo đó, luật pháp cai trị, các công chức hành động theo luật pháp. Các nỗ lực cải cách hành chính tập trung vào xây dựng một bộ máy luật pháp phức hợp, áp dụng vào hệ thống nhiều tầng nấc với vai trò ổn định và rõ ràng trong từng tầng nấc. Tóm lại, phát triển của luật pháp và của các quy định về nền công vụ được bắt nguồn từ nhà nước pháp quyền.

Suốt thời gian dài, những nỗ lực cải cách hành chính của Phi-lip-pin được mở rộng nhằm đạt hệ quả lâu dài là củng cố khuôn khổ nền Hành chính truyền thống (kiểu Weber); trong một số trường hợp, nó là sự thay đổi cơ cấu hình thức bề ngoài, nhưng không đem lại sự thay đổi mang tính đột phá nào. Với tính tập quyền và quyền tự quyết định nằm trong tay một số nhà quản lý, và cũng do thiếu tinh thần trách nhiệm xã hội và chính trị về việc sử dụng quyền lực to lớn của Nhà nước, các nhà cai trị tự cho mình có vai trò toàn năng trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm, do đó tình trạng lạm quyền, tham nhũng có đất để tồn tại.

Trong những năm 80 của thế kỷ trước, Phi-lip-pin ngày càng nhận ra rằng hệ thống luật pháp quá phức tạp không thể đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng đa dạng của nền công vụ hiện đại gắn với nhà nước phúc lợi đã trưởng thành. Phái ủng hộ cải cách hành chính cho rằng hệ thống luật pháp đã trở nên quá phức tạp, thiếu hoàn thiện, không còn hiệu quả, và những tàn dư của cỗ máy Nhà nước pháp quyền kiểu cũ đã cản trở nghiêm trọng nền hành chính đang mong muốn đáp ứng những đòi hỏi thay đổi từ mô hình nhà nước cai trị sang mô hình nhà nước phục vụ. Chúng ta còn nhớ tình huống thực tế đã buộc nhà nước Phi-lip-pin phải “xã hội hóa” nhiều hoạt động cung cấp dịch vụ. Đó là sự suy thoái vào những năm 1980 ở Phi-lip-pin. Thực tế càng chứng tỏ rằng một nền kinh tế mở cửa không thể tiếp tục duy trì cung cách chi tiêu của khu vực công tích lũy trong những năm 1970. Những khó khăn mà Chính phủ phải đối mặt đã buộc họ phải chuyển giao một số hoạt động thương mại cho khu vực tư nhân. Cơ sở của những chuyển hóa đó là quá trình tư hữu hóa sẽ giúp Chính phủ có khả năng sử dụng các nguồn lực một cách hữu hiệu hơn trong các lĩnh vực hoạt động truyền thống của Chính phủ. Về phần mình Chính phủ cũng mong muốn áp dụng các kỹ thuật quản lý có hiệu quả cho các tổ chức này để tiết kiệm nguồn lực khan hiếm của đất nước.

Bước thứ hai trong tiến trình cải cách hành chính mang tính chất đặc trưng dân chủ thực sự. Chính phủ vẫn đảm nhận nhiệm vụ hành pháp, nhưng luật pháp trở thành một hiện tượng ít ổn định nhất. Luật pháp thời kỳ này là công cụ của cải cách. Các đại biểu trong cơ quan ra quyết định coi ý muốn chính trị luôn luôn thay đổi của người công dân là chuẩn mực để điều chỉnh các hoạt động của Chính phủ. Đặc trưng của bước này là mở rộng dịch vụ, ngân sách và bảng lương cùng những hoạt động của Chính phủ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của đông đảo dân chúng.

Trong giai đoạn này, cải cách hành chính tập trung nỗ lực vào xây dựng một khuôn khổ nền hành chính linh động, có thể cân nhắc một cách thực tế các nhu cầu cấp bách của tình hình; khuyến khích tiến trình ra quyết định công khai trên cơ sở trao đổi thảo luận với các đồng nghiệp, tập trung xung quanh triết lý hướng về khách hàng; coi trọng giá trị nhân văn của các dịch vụ và đạo đức cho mọi người. Ngoài ra, Ủy ban Công vụ Phi-lip-pin còn có những sáng kiến cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, phục vụ nhân dân của các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương, như đưa ra chương trình: “Xóa bỏ nạn nhũng nhiễu giấy tờ” (1988), áp dụng khẩu hiệu “Hãy luôn lịch sự, nhã nhặn” (1990), tiếp đó cho đặt hòm thư tự động ở Văn phòng Ủy ban công vụ Trung ương và 16 Văn phòng địa phương để thu nhận ý kiến phản hồi của công dân.

Đầu những năm 90 thế kỷ 20, Phi-lip-pin chủ trương chuyển đổi nền hành chính công hướng theo thị trường. Nhu cầu của con người ngày càng tăng và ngày càng trở nên đa dạng. Việc áp dụng cung cách ra quyết định đơn giản theo đa số của nhà nước phúc lợi, ngày càng khó đáp ứng được những nhu cầu đó. Nỗ lực cải cách hành chính hướng theo thị trường không bắt buộc phải từ bỏ nền dân chủ. Thời đại mới, người dân thường thích lựa chọn dịch vụ theo những quyết định xem xét đầu ra chính sách của đa số. Nếu các nhu cầu đa dạng, các dịch vụ được coi như một mục tiêu chính trị, thì nền hành chính công phải đối xử với công dân như những “khách hàng tự do” được lựa chọn cái mà họ có thể chi trả được. Họ có thể trả bằng thuế, bằng phí tính từ chi phí sản xuất và các phí khác theo quy định của pháp luật… Nỗ lực cải cách hành chính hướng vào thị trường vẫn phải chú ý đến cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả xã hội. Những biện pháp mới này phải được áp dụng để đạt được mục tiêu truyền thống về một sự phân phối công bằng các dịch vụ công.

Hiện nay, ba chính sách lớn của Phi-lip-pin được khởi phát từ năm 1986 vẫn ảnh hưởng quan trọng đến sự quản lý của chính quyền địa phương. Đó là sự phân quyền, tư nhân hoá và áp dụng các thiết chế thay thế để cung ứng các dịch vụ công. Phần tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích khía cạnh phân quyền của nền hành chính Phi-lip-pin.

Những tiến triển trong luật pháp về phân quyền và thực tiễn quá trình phân quyền của nền hành chính Phillipin

Bắt đầu từ những năm 1950, việc phân quyền tại Phi-lip-pin được thử nghiệm rộng rãi như một chiến lược phát triển và dân chủ hóa. Tuy nhiên, những đợt sóng phân quyền đã thay đổi qua một thời gian dài. Ví dụ, trong khi hầu hết nỗ lực phân quyền trong quá khứ tập trung vào sự tản quyền hành chính, đồng nghĩa với phân tán quyền lực, thì trong thập kỷ 80 trở lại đây, hành động phân quyền hướng tới chuyển giao quyền lực hoặc phân quyền chính trị. Nó cũng đồng nghĩa với chế độ tự quản địa phương.

Về mặt tản quyền hay phân tán quyền lực, thì việc khu vực hoá của nền hành chính của Chính phủ đã được thể chế hoá, được coi như là một trong những biện pháp phân quyền quan trọng nhất trong quá khứ. Dưới chính quyền của Tổng thống Marcos, sơ đồ phân quyền được thực hiện theo Kế hoạch Tổ chức lại toàn bộ (IRP), chia đất nước thành 13 khu vực hành chính. Do vậy sơ đồ hành chính này đã làm cho Chính phủ gần gũi với người dân hơn và những cơ quan của Chính phủ trung ương tại địa phương và khu vực được thiết lập khắp các nơi trong nước.

Về thực hiện sự chuyển giao quyền lực, có các Đạo luật sau ra đời:

1.               Luật Tự trị địa phương năm 1959: chuyển giao một số quyền cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực lập và dự trù ngân sách.

2.               Luật Hiến chương Barrio thừa nhận các quyền chính đáng này cho chính quyền xã.

3.               Đạo luật phân quyền năm 1967: chuyển giao một số quyền lực và chức năng cho các chính quyền địa phương. Về mặt chính trị, đây là những biện pháp phân quyền chính trị quan trọng nhất trong quá khứ.

Trong những năm gần đây nhất, cuối những năm 1980 và hiện nay, quá trình phân quyền của Phi-lip-pin hướng chủ yếu vào sự chuyển giao quyền lực. Bộ Luật Chính quyền địa phương thông qua năm 1991, được coi là có ý nghĩa cách mạng, vì đã chuyển giao những quyền và chức năng nhất định, trong đó có cả việc chuyển giao những nguồn lực là vấn đề trước đây chưa hề thực hiện. Bộ luật năm 1991 nhằm tăng cường và giao thêmquyền cho chính quyền địa phương (các tỉnh, thành phố, các thành phố lớn, các barangay[1]) tức là chính quyền địa phương được thực hiện chế độ tự trị hay nói cách khác là được giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào Chính phủ quốc gia như trước đây. Một biện pháp giao quyền gần đây nữa là thiết lập hai vùng tự trị. Đó là vùng tự trị Cordileras ở phía Bắc và vùng tự trị Hồi giáo Mindanao ở phía Nam.

Theo Đạo luật năm 1967, Chính phủ thực hiện phân quyền đối với việc cùng cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực mở mang nông nghiệp và y tế ở nông thôn. Nhờ đó các chính quyền tỉnh và thành phố được ủy quyền bổ sung hay trợ giúp việc cung ứng các chức năng ấy. Theo Luật tự trị địa phương, việc phân chia các nguồn lực cũng được ủy quyền, chẳng hạn như các thành phố và thị xã được giao thêm quyền đánh thuế bổ sung trong khuôn khổ pháp luật thuế quốc gia.

Từ khi áp dụng Bộ luật chính quyền địa phương năm 1991, ngoài vấn đề cùng chia sẻ trách nhiệm và quyền hạn với chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương còn được giao trách nhiệm quan trọng và có thẩm quyền trong việc thực hiện một số lĩnh vực cơ bản: nông nghiệp, nhiều dịch vụ công cộng (y tế, giáo dục phổ thông, xây dựng cơ sở hạ tầng…), các nguồn lực tự nhiên và phúc lợi xã hội. Việc chuyển giao những chức năng này được coi như là mô hình cùng sản xuất và cung ứng các dịch vụ. Theo nghĩa đó, chính quyền Trung ương không còn là người duy nhất cung ứng những dịch vụ hay đảm nhiệm chức năng này. Tuy nhiên, việc chuyển giao cũng có thể được coi là phân chia quyền quyết định chung hay quản lý chung với tư cách là những đơn vị địa phương được trao quyền quyết định cung ứng hoặc thực hiện các chức năng nói trên.

Trong lĩnh vực quản lý nhân sự, các nhà quản lý chủ chốt của chính quyền địa phương được giao thêm quyền về vấn đề này. Ví dụ, các nhân viên của chính quyền quốc gia thực hiện những chức năng được chuyển giao đều có những quyền tương ứng, và điều hợp lý là họ phải chịu sự giám sát và kiểm tra của các nhà quản lý chủ chốt của địa phương. Hơn nữa, quyền bổ nhiệm nhân sự của ban lãnh đạo chủ chốt của địa phương cũng được mở rộng thêm. Vì thế, những quan chức trước đây được bổ nhiệm ở trung ương, ví dụ những nhân viên thu thuế, trợ lý thu thuế, và cán bộ ngân sách hiện nay đều do các nhà quản lý chủ chốt ở địa phương bổ nhiệm.

Trong lĩnh vực quản lý tài chính cũng phân giao cho các đơn vị chính quyền địa phương. Hơn nữa, các cơ sở địa phương còn được trao thêm quyền thu hút các nguồn tài chính bằng việc cho phép họ có quyền tăng suất thuế. Bên cạnh đó, phần thu nhập tính từ thuế của địa phương trên địa bàn - thể hiện phần thu của tỉnh, thành phố, các barangay cũng tăng dần từ 20 lên 40% tổng số nguồn thu thuế quốc gia. Năm đầu tiên thực hiện Bộ luật mới (1992) khoảng 30%, năm thứ hai (1993) khoảng 35%, năm kế tiếp và những năm tiếp theo là 40%. Tất cả các biện pháp này nhằm mang lại sự tự quản về tài chính của các cơ sở địa phương.

Kế hoạch hóa và xác định mục tiêu là khía cạnh khác của việc trao quyền cho chính quyền địa phương. Trước đây, việc lập kế hoạch phát triển của địa phương luôn đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền trung ương, nhưng từ khi có Bộ luật mới, các đơn vị địa phương được giao quyền tự quyết trong việc thực hiện con đường phát triển của riêng mình. Vì vậy, chính quyền địa phương không phải trình kế hoạch phát triển của mình lên chính quyền trung ương, đặc biệt là lên Nha Nội chính và chính quyền trung ương tại địa phương. Để nâng cao vai trò của kế hoạch địa phương, Bộ luật mới quy định thành lập cơ quan điều phối kế hoạch và phát triển cho mỗi đơn vị chính quyền địa phương. Cơ quan này có trách nhiệm lập các kế hoạch tổng thể đã được trình lên các Hội đồng phát triển địa phương; tiến hành điều tra, nghiên cứu những chương trình đào tạo liên quan đến lập kế hoạch và thực hiện chương trình phát triển địa phương; phân tích mô hình thu-chi và lập kế hoạch ngân sách...

Chính phủ Phi-lip-pin đã thực hiện những thay đổi trong việc phân quyền để theo đuổi những mục tiêu dân chủ như đã đề cập trên đây. Nhằm thực hiện Luật chính quyền địa phương năm 1991 ở Phi-lip-pin, một số chức năng đã được chuyển giao cho chính quyền địa phương theo các nguyên tắc sau:

- Chính quyền địa phương phải hoạt động hiệu quả hơn trong việc quản lý những chức năng nói trên vì nó đã tạo ra một vị thế thuận lợi hơn, đáp ứng được những điều kiện đa dạng và luôn thay đổi của địa phương.

- Thúc đẩy nền dân chủ địa phương vì các quan chức được bổ nhiệm ở địa phương hiện nay có trách nhiệm cung ứng những chức năng này.

- Sự công bằng được đảm bảo hơn vì các cộng đồng địa phương nhận được nhiều hơn phần dịch vụ công mà họ đáng được hưởng.

Tất cả các cấp chính quyền địa phương ở Phi-lip-pin đều được lôi cuốn vào quá trình chuyển giao quyền lực này. Bộ luật mới định rõ mức tối thiểu những dịch vụ do tỉnh, thành phố, đô thị, và các barangay quản lý. Về phương thức thực hiện, việc chuyển giao quyền lực của Bộ luật này là nhằm thay đổi cách tiếp cận truyền thống xưa nay từ cấp trên xuống sang cách từ dưới lên. Vấn đề này cũng tạo ra một động lực thúc đẩy sự thay đổi và phát triển xuất phát từ cộng đồng dân cư địa phương.

Kinh nghiệm của Phi-lip-pin cho thấy việc phân quyền trong một môi trường chính trị tự do hơn sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn. Trong chế độ độc tài của Marcos, phân quyền (đặc biệt là chuyển giao quyền lực) bị kìm hãm. Nhưng đến thời tự do của Aquino, phân quyền mới đạt hiệu quả, đặc biệt bộ Luật Chính quyền địa phương 1991 là một thành quả lớn nhất, đánh dấu bước phân quyền mới trong hoạt động lập pháp, giao các quyền, chức năng cho chính quyền địa phương mà trước đây chưa hề có.

Tuy vậy, thực chất Bộ luật mới cũng như hoạt động lập pháp này vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Một số sai sót của Bộ luật liên quan đến lập kế hoạch tài chính trong quá trình phân quyền đã thể hiện trong bước đi đầu tiên của tiến trình cải cách hành chính. Kinh nghiệm ban đầu của việc phân cấp cho chính quyền địa phương cho thấy có tình trạng không tương xứng giữa nguồn lực và dịch vụ được chuyển giao. Chi phí quản lý những dịch vụ được chuyển giao này lớn hơn so với số tiền được chuyển giao cho những dịch vụ này. Các đơn vị địa phương lo ngại phần thuế thu được của địa phương trên địa bàn không đủ đáp ứng các chức năng và nhân sự mà họ được các cơ quan Chính phủ giao cho. Do vậy, một bài học nữa có thể nêu ra ở đây là cần có một sự tương xứng giữa tài chính và chức năng chuyển giao quyền lực để các đơn vị địa phương có thể thực hiện quá trình chuyển giao quyền lực của Chính phủ được chính xác và thiết thực hơn. Thập niên đầu thế kỷ 21, Chính phủ Phi-lip-pin vẫn tiếp tục có những nỗ lực cải cách nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thách thức phải giải quyết trong cả một giai đoạn dài. Đó là mâu thuẫn sắc tộc, lạm phát, tham nhũng; vấn đề tăng dân số quá mức cho phép, nhất là tại các địa phương có mức sống thấp. Đó là việc tăng cường nhận thức coi trọng sản xuất nông nghiệp, an toàn lương thực cho các địa phương, các vùng có thể trồng lúa sản lượng cao… Họ phải tiến hành bằng các giải pháp hoàn thiện chính sách, củng cố và nhân rộng sáng kiến thành công của các địa phương, với phương châm chủ đạo là: “Có sự đổi mới vững chắc và liên tục trong việc thực hiện các biện pháp cải cách”, chú trọng công tác cán bộ, mạnh dạn bổ nhiệm những người có bằng cấp chuyên môn cao, được đào tạo từ các trường danh tiếng quốc tế, tiếp tục hoàn thiện mô hình chính phủ dịch vụ và quản lý công cộng hiệu quả. Năm 2007, Quốc hội Phi-lip-pin đã có những thảo luận sửa đổi Hiến pháp, theo đó có thể sẽ xây dựng thể chế nhà nước Liên bang, nhưng vấn đề phân chia tiểu bang gồm rất nhiều đảo, cùng các vấn đề quản lý kinh tế-xã hộikhác nữa không phải dễ dàng giải quyết được ngay để tạo sự đồng thuận cao trong việc thông qua sửa đổi Hiến pháp.

Thử đề xuất cho trường hợp Việt Nam về vấn đề phân quyền và tự quản:

 Hiện nay, bộ Luật về HĐND và UBND là khung pháp lý cho hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện bộ máy nhà nước, thúc đẩy cải cách hành chính toàn bộ nền hành chính công; trong đó có việc phân cấp, phân quyền, hoàn thiện cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ chính quyền địa phương, có thể và cần thiết ban hành Bộ luật chuyên về chính quyền địa phương. Theo chúng tôi, Bộ Luật chính quyền địa phương mới cần tập trung vào 5 vấn đề cơ bản: Làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của từng cấp chính quyền địa phương; phân biệt rõ đặc thù chính quyền đô thị và địa phương về tổ chức, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp cho hợp lý, hiệu quả, hiện đại; phân định rõ vị trí người đứng đầu quản lý hành chính của chính quyền địa phương, đô thị theo mô hình các nước phát triển: tỉnh trưởng, thị trưởng... mà vẫn phù hợp với thiết chế nhà nước, lộ trình cải cách hành chính của nước ta, đồng thời tiến tới có thể áp dụng các sáng kiến như tổ chức tranh cử chức tỉnh trưởng, thị trưởng; ứng cử viên phải trình bày đề án công việc của mình trước cơ quan thẩm quyền và cử tri; xây dựng kiện toàn chính quyền tự quản ở cấp cơ sở; về hành chính cần chú ý địa giới, nhưng về kinh tế - văn hóa - xã hội các địa phương, trong Luật cần đề cập, nhấn mạnh tính cân đối, thế mạnh của từng vùng, khu vực, liên tỉnh, để tránh đầu tư dàn trải, chồng chéo, lãng phí.

 Ngoài các vấn đề cơ bản trên, trong các văn bản dưới luật có chức năng “nối dài cánh tay luật pháp” có thể chú ý những vấn đề sau:

 Vì yếu tố con người, nhất là người lãnh đạo rất quan trọng nên trước hết, đối với những vị trí lãnh đạo chủ chốt, gắn với quyền phân bổ các nguồn lực đặc biệt của địa phương (ví dụ người đứng đầu cơ quan điện lực, dầu khí, khai thác tài nguyên quý hiếm; Sở Quy hoạch, xây dựng đô thị; Ngân hàng NN&PTNT…) cần có cơ chế cho họ ký quỹ, gửi tiền vào Quỹ (do một cơ quan có thẩm quyền kiểm soát, nắm giữ), nếu tham nhũng, hoặc gây thiệt hại đến kinh tế-xã hội địa phương, ngoài việc phải chịu các mức án phạt theo pháp luật còn bị trưng thu tài sản ký quỹ.

 Cần quy hoạch liên tục để tránh tình trạng hẫng hụt các thế hệ lãnh đạo và công chức có kinh nghiệm lâu năm. Phải định kỳ có chế độ khảo khóa đối với cả cấp lãnh đạo lẫn chuyên viên; loại bỏ, thuyên chuyển những người không đủ năng lực, không đáp ứng nhiệm vụ và chú ý bồi dưỡng những nguồn cán bộ trẻ, kể cả việc chú ý ngay từ khi họ còn là sinh viên(giống như các doanh nghiệp lớn thường làm). Không phải ngẫu nhiên, mới đây trong dịp đến thăm Đại học quốc gia Phi-lip-pin ngày 10/8/2007, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã có những lời nhắn nhủ tâm huyết với sinh viên - lớp người trẻ của hai nước: Cơ hội lớn nhất đối với các bạn trẻ là chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng phẳng hơn, trong đó thanh niên là người chủ của công nghệ mới. Những tiến bộ của nền kinh tế tri thức, những thành tựu của khoa học, công nghệ, đã và đang tạo điều kiện cho các nước có nhiều cơ hội chia sẻ, xích lại gần nhau, có thêm hiểu biết về đất nước và các dân tộc khác nhau trên thế giới và tăng cường hơn tính chia sẻ cộng đồng nhân văn cao cả…

Đất nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, các địa phương hãy mạnh dạn đầu tư vào nguồn lực con người (TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện Dự án lựa chọn 300 cán bộ trẻ đi du học các lĩnh vực, trong đó có quản lý công ở nước ngoài). Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc sử dụng các cán bộ trẻ tài giỏi, tâm huyết, yêu quê hương vào các vị trí quan trọng để họ phát huy sức trẻ, tri thức hiện đại cho chính địa phương đã nuôi dưỡng, vun đắp họ.

Các địa phương cần đẩy mạnh việc trao đổi kinh nghiệm, hợp tác với quốc tế, trước hết là trong khu vực nói chung và với Phi-lip-pin nói riêng bằng các hình thức hiện đại, hiệu quả. Ví dụ: Kết hợp cử cán bộ có trách nhiệm đi tháp tùng với các đoàn Đảng - Nhà nước ta (như dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Phi-lip-pin tháng 8/2007); cử cán bộ quản lý giỏi ngoại ngữ tham gia Hội nghị, Hội thảo chuyên ngành Hành chính và liên quan tới công tác quản lý ở nước ngoài; Có thể vẫn cử các đoàn đi học ngắn hạn, nhưng phải lựa chọn kỹ người đi; chọn lĩnh vực, vấn đề mà địa phương cần tham khảo kinh nghiệm; không trùng lặp với chủ đề, thông tin của những đoàn trong địa phương mình và địa phương khác của nước ta trước đó đã nghiên cứu; người đi học về phải áp dụng được kiến thức vào công việc của mình, chẳng hạn áp dụng phân cấp quản lý vệ sinh môi trường của Phi-lip-pin thì sau một thời gian phải có báo cáo kết quả so sánh thật cụ thể. Cái cần học nhất là chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý tại chỗ: Hiện nay và sắp tới các chuyên gia quốc tế sang nước ta thực hiện nhiều dự án tại các địa phương liên quan nhiều đến hoạt động quản lý, phân cấp quản lý, v.v… vì thế địa phương nên giao hẳn nhiệm vụ cho một số cán bộ đủ năng lực bám sát chuyên gia, học hỏi họ để vận dụng vào thực tiễn cơ quan, tổ chức mình.

 
Rút kinh nghiệm về mối quan hệ hữu cơ giữa phân bổ tài chính, phân bổ chi tiêu công và chức năng, quyền hạn địa phương ở Phi-lip-pin, ở Việt Nam cũng rất cần hoàn thiện chính sách. Hiện nay vẫn tồn tại kiểu phân bổ tạm gọi là “truyền thống” - tức là địa phương nào nghèo, nguồn thu ít, bão lụt nhiều thì cấp nhiều, địa phương nào kinh tế phát triển thì giảm cấp ngân sách. Theo các chuyên gia thì cần sớm cải tiến để việc phân bổ cấp theo HDI (Human Development Index) và theo kết quả đầu ra mới đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và theo kịp sự hội nhập của quốc tế. Xin nói thêm rằng chỉ số phát triển HDI  hợp thành bởi ba tiêu chí thành phần gồm tuổi thọ, học vấn, GDP bình quân; phản ánh tổng hợp, toàn diện cả số lượng và chất lượng thành tựu kinh tế-xã hội; hiện được nhiều quốc gia (trong đó có Phi-lip-pin) sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế-xã hội thời đại hội nhập. Tại Việt Nam, cần thống nhất nhận thức về HDI, đẩy mạnh, chuẩn hóa, triển khai đồng bộ việc đo lường HDI tại các tỉnh thành, quận huyện. Việc dùng HDI trước hết là việc làm khoa học, hiện đại, hiệu quả, thiết thực, để nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành nhà nước cho cán bộ lãnh đạo, công chức làm việc cho bộ máy công quyền toàn quốc trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý mạnh mẽ. Mặt khác, quy trình đó là một nhân tố có vai trò đặc biệt giúp cho các nhà quản lý, công chức và rộng ra là cả xã hội nhận thức sâu sắc, đúng mức quan điểm phát triển con người, vì con người Việt Nam. Nếu chủ động nắm bắt, sử dụng được HDI thì công cụ quản lý kinh tế-xã hội mang tính hội nhập của các địa phương nói riêng và quốc gia nói chung sẽ theo đúng chuẩn quốc tế, thuận lợi hơn cho nước ta trong hợp tác phát triển cùng các nước, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên WTO. Ngoài ra, trong phân cấp, xu hướng sẽ là Trung ương đưa ra định hướng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội mang tính tổng thể, chiến lược. Các địa phương chủ động lập kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của mình cùng kế hoạch ngân sách (quyết định dự toán thu chi ngân sách trên địa bàn, dự toán thu chi ngân sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình…) phải dựa trên kết quả đầu ra. Vì vậy, nhu cầu, căn cứ dựa vào việc tính HDI ở các địa phương đang trở nên bức thiết hơn bao giờ hết, Nhà nước nên sớm có chính sách về vấn đề này.
 
PGS. TS. Lê Thanh Bình

Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 (72), tháng 3 – 2008

Tài liệu tham khảo

1. Jose P. Leveriza, Public Administration - The Business of Government, National Book Store, Inc., Manila, Philippines, 1990.

2. Phạm Mộng Hoa (chủ biên), Địa lý Kinh tế - xã hội các nước ASEAN, Tập 1 (Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1999).

3. http://www.gov.ph/#, The Official Website of the Republic of The Philippines;

4. Lê Thanh Bình (1996, 2001), Báo cáo Khảo sát về quản lý công tại Phi-lip-pin;

5. Các báo Nhân Dân, Lao Động, Tuổi Trẻ ngày 11/8/2007; Báo Thế giới và Việt Nam số 39/2007.



[1] Xã, phường, thị trấn (cấp dưới trực thuộc thành phố lớn).