1. Đánh giá của Chính quyền Obama đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương 

Sau khi lên cầm quyền, Chính quyền Obama đã đưa ra đánh giá đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương từ ba mặt: 


Một là vị thế của khu vực châu Á-Thái Bình Dương trên thế giới. Hiện nay, Mỹ cho rằng khu vực châu Á-Thái Bình Dương không chỉ là một trong những khu vực có dân số đông nhất thế giới, mà còn là một trong những khu vực có nền kinh tế phát triển sôi động nhất và tập trung nhiều của cải nhất. Đồng thời, khu vực này còn là một trong những khu vực có lực lượng quân sự dày đặc nhất, tiềm lực phát triển quân sự lớn nhất và vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân nghiêm trọng nhất thế giới. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thừa nhận: “mấy thế hệ trước, các nước châu Á từng rất nghèo, hiện nay họ có thể tự hào cho rằng họ là khu vực có mức sống cao nhất trên thế giới. Đến năm 2015, Đông Á sẽ thực hiện và vượt mục tiêu ‘kế hoạch phát triển thiên niên kỷ’, tức là giảm một nửa mức dân số nghèo của năm 1990.” Vì vậy, bất kể về lĩnh vực kinh tế, hay là an ninh, đối với Mỹ khu vực châu Á-Thái Bình Dương ngày càng trở nên quan trọng. 


Hai là lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngày nay, Mỹ nhiều lần nhấn mạnh lợi ích của Mỹ gắn bó chặt chẽ với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hillary tuyên bố: “tương lai của Mỹ liên quan chặt chẽ với châu Á-Thái Bình Dương, còn tương lai của châu Á-Thái Bình Dương sẽ phải dựa vào Mỹ. Về kinh tế và chiến lược, Mỹ có lợi ích quan trọng trong việc tiếp tục lãnh đạo châu Á.” “Về kinh tế, chúng tôi không có cách nào thoát khỏi sự gắn bó này. Chẳng hạn như xuất khẩu về hàng hóa và dịch vụ của các công ty Mỹ sang các nước châu Á-Thái Bình Dương đạt 320 tỉ USD, đồng thời tạo cơ hội việc làm thu nhập cao cho hàng trăm nghìn người. Cùng với đó, hàng trăm hàng nghìn nam nữ quân nhân cũng đang phục vụ cho an ninh của khu vực này….” Chuyên gia về các vấn đề quốc tế Mỹ James J. Przystup đã khái quát lợi ích của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương: bảo vệ lợi ích của công dân Mỹ ở châu Á, bảo hộ thị trường của Mỹ ở khu vực này, bảo đảm sự tự do và an ninh của giao thông đường biển, duy trì thế cân bằng lực lượng khu vực, đề phòng sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thúc đẩy các mặt như dân chủ và nhân quyền. 


Ba là những thách thức mà Mỹ phải đối mặt ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong “Báo cáo chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ” gửi lên Chính quyền Obama, Trung tâm an ninh mới của Mỹ nêu rõ, gần 10 năm trở lại đây, khu vực châu Á-Thái Bình Dương nảy sinh 4 thay đổi mang tính căn bản: (1) sức mạnh chính trị và tốc độ phát triển kinh tế của khu vực này tăng lên nhanh chóng so với các khu vực khác trên thế giới. Hiện nay, xuất khẩu của khu vực châu Á-Thái Bình Dương chiếm 30% tổng lượng xuất khẩu của thế giới, kim ngạch thương mại mỗi năm giữa khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Mỹ vượt 1000 tỉ USD, dự trữ ngoại hối chiếm 2/3 tổng lượng của thế giới. (2) Sự trỗi dậy của Trung Quốc một mặt đã đem đến cơ hội để kinh tế các nước xung quanh phát triển, mặt khác lại làm cho họ cảm thấy buồn phiền và lo lắng. (3) Các quốc gia sở hữu hạt nhân ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương không ngừng tăng lên, sự theo đuổi của các tổ chức phi chính phủ đối với vũ khí hủy diệt hàng loạt và việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mỹ ở khu vực này, đều có khả năng dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương thêm gay gắt. (4) Cơ chế hợp tác đa phương khu vực không ngừng tăng làm cho khả năng xuất hiện nhất thể hóa khu vực cũng tăng lên. Tất cả những thay đổi này đối với Mỹ mà nói, thà tăng thêm những cơ hội mới, còn hơn tăng thêm thách thức mới, và trong tất cả những thách thức, Mỹ lo lắng nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ nửa vui nửa buồn đối với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc, sự phát triển này tạo cơ hội để Mỹ đầu tư và xuất khẩu hàng hóa vào Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng tạo thành mối đe dọa đối với sức ảnh hưởng kinh tế của Mỹ ở khu vực này. Mỹ tỏ ra lo lắng trước sự “lớn mạnh không ngừng” của sức mạnh quân đội Trung Quốc, sự “không minh bạch” của phát triển quân sự, và sự “tăng lên nhanh chóng” của chi phí quân sự, cũng như những “hoạt động liên tiếp” của hải quân Trung Quốc ở Biển Đông. Chuyên gia Mỹ Peter Brookes không hề che giấu nói: “không còn nghi ngờ gì nữa, trong tương lai những năm tới sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ nảy sinh những ảnh hưởng lớn đối với nội hàm và kết cấu của môi trường an ninh châu Á. Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng tạo thành những ảnh hưởng mang tính căn bản đối với lợi ích của Mỹ ở châu Á. Trên thực tế, một số chuyên gia cho rằng Bắc Kinh rất có tham vọng, và tin tưởng rằng Trung Quốc đang tìm cách thay thế vị thế mang tính chủ đạo của Mỹ ở Thái Bình Dương, cho tới toàn cầu.” Ngoài những thách thức từ Trung Quốc, Mỹ còn lo lắng về vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở châu Á như vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên và
Iran , Ấn Độ và Pakixtan sở hữu hạt nhân. Vấn đề phổ biến hạt nhân không chỉ ảnh hưởng đến sự ổn định khu vực, mà còn kích thích Nhật Bản và Hàn Quốc hạ quyết tâm phát triển vũ khí hạt nhân, thậm chí còn phá hoại hơn nữa quan hệ giữa Mỹ và các nước đồng minh này. Nước Mỹ cho rằng thế lực chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo ở Nam Á và Đông Nam Á tạo thành mối đe dọa nghiệm trọng đối với lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đến nay, lực lượng chống khủng bố của Mỹ ở Nam Á chưa đủ mạnh, nên chưa thể duy trì được sự ổn định ở Irắc, còn thế lực của chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo ở Philíppin và Inđônêxia đã ảnh hưởng đến việc ổn định chính quyền của Mỹ ở các nước liên minh trong khu vực và các nước có quan hệ thân thiết. Trong những thách thức mới, Mỹ còn nhìn thấy rất nhiều mối đe dọa khác như mối đe dọa từ khủng hoảng tài chính, môi trường, bệnh truyền nhiễm xuyên quốc gia. Hillary cho rằng “châu Á không chỉ là khu vực của các quốc gia trỗi dậy, mà còn là nơi có chính quyền bị cộng đồng quốc tế cô lập; ở đó không chỉ tồn tại thách thức lâu dài, mà còn đang phải đối mặt với các mối đe dọa chưa từng có”. 


2. Chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama 


Quan hệ lợi ích không thể loại bỏ giữa Mỹ và khu vực châu Á-Thái Bình Dương và rất nhiều thách thức sẽ phải đối mặt ở khu vực này là bối cảnh cơ bản để Chính quyền Obama thiết lập chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương. Sau khi lên cầm quyền, trước tiên, Chính quyền Obama đã đưa ra những điều chỉnh lớn về quan niệm, do vậy Mỹ không những nhấn mạnh mình là một quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương, mà còn nhấn mạnh mình là một nhà nước châu Á. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates tuyên bố rõ ràng rằng “Mỹ không phải là một khách mời của châu Á, mà là một nước cư trú ở châu Á”, và cách nói này nhiều lần được các nhà lãnh đạo khác của Mỹ trích dẫn trong các trường hợp công khai. Rốt cuộc mục đích của việc Mỹ gấp gáp hòa nhập vào châu Á và muốn trở thành một thành viên của châu Á là gì? Ngày 21 tháng 1 năm 2010, tại cuộc điều trần trước quốc hội, Trợ lí Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Kurt M. Campbell nói rất rõ: “nhân dịp thế kỷ của châu Á-Thái Bình Dương đang đến, trong môi trường quốc tế mới, Mỹ cần phải tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa vai trò lãnh đạo và sự tham gia chiến lược của mình ở khu vực này.” Từ đó có thể thấy, mục tiêu chủ yếu của chiến lược an ninh châu Á Thái Bình Dương của mình là: muốn tăng cường quyền lãnh đạo và quyền khống chế của mình đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 


Ngày 12 tháng 1 năm 2010, trong bài phát biểu ở Honolulu, Hillary đã trình bày rõ ràng trọng điểm và nguyên tắc công việc của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trên thực tế những nguyên tắc và trọng điểm này là nội dụng cơ bản của chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Một là, tăng cường hệ thống liên minh của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và thúc đẩy quan hệ đối tác của Mỹ ở khu vực này. Mỹ coi các nước đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philíppin và Thái Lan là lực lượng dựa vào chủ yếu để Mỹ tiếp tục duy trì và phát huy tầm ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Vì vậy, trên cơ sở đó Mỹ không cắt giảm quân đồn trú ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, không ngừng cải tiến chất lượng quân đồn trú của Mỹ ở khu vực này. Tháng 2 năm 2009, Mỹ và Nhật Bản đã ký “Hiệp định quốc tế về đảo Guam”, kế hoạch trong 6 năm tới sẽ chuyển sĩ quan, binh lính và người thân của đội hải quân lục chiến Mỹ đồn trú ở căn cứ Futenma tại Okinawa về đảo Guam, từ đó làm cho việc triển khai quân sự ở nước ngoài của Mỹ được bắt đầu thực thi từ năm 2005 chắc chắn hơn, và thực hiện có hiệu quả sự răn đe chiến lược ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoài ra, để giảm bớt mâu thuẫn trong dân chúng Nhật Bản với việc đóng quân của Mỹ, Mỹ bắt đầu cùng với Nhật Bản thành lập tổ công tác chung để xem xét lại “Thỏa thuận thay thế các căn cứ Futenma”. Mỹ tích cực hợp tác với Hàn Quốc trong vấn đề thuyết phục Triều Tiên từ bỏ hạt nhân và đàm phán 6 bên, khích lệ Hàn Quốc phát huy vai trò tích cực trong việc duy trì ổn định an ninh khu vực Đông Bắc Á và xóa bỏ hoàn toàn hạt nhân. Để mở rộng lại ảnh hưởng ở châu Á, Chính quyền Obama còn chú trọng phát triển quan hệ với các nước châu Á không phải đồng minh của Mỹ. Hillary nêu rõ: “Ngoài hiệp ước đồng minh, Mỹ sẽ tăng cường quan hệ với các nước chủ chốt khác, chúng tôi sẽ tiến hành đối thoại chiến lược với Ấn Độ, triển khai đối thoại chiến lược và kinh tế với Trung Quốc, xây dựng quan hệ đối tác toàn diện với Inđônêxia. Chúng tôi đang tăng cường quan hệ với các đối tác mới và đối tác lâu dài của chúng tôi, chẳng hạn như quan hệ với Việt
Nam và Xinhgapo.” Hai là, tích cực tham gia cơ chế hợp tác kinh tế và an ninh khu vực, bao gồm các cơ chế như ngăn ngừa phổ biến hạt nhân, xung đột khu vực, chạy đua vũ trang và hàng rào thuế quan. Ba là, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc “hợp tác có kết quả”. Hillary nói: “Kết quả thu được của những tổ chức hiện có quan trọng hơn nhiều so với kết quả được thu được của những tổ chức mới. Hiện nay, trong cơ chế đa phương, đối thoại là vô cùng quan trọng. Với tư cách là một quốc gia ở châu Á đang ngày càng có vai trò quan trọng trong khu vực và trên thế giới, chúng tôi sẽ phải hành động nhiều hơn nữa. Các tổ chức nên có quy tắc và đánh giá một cách chân thành đối với sự tiến bộ của các cơ chế, đồng thời cũng nhấn mạnh tất cả các thành viên đều nên có trách nhiệm trong việc phát huy vai trò tích cực.” Mỹ chủ trương phát huy vai trò lớn hơn trong các cơ chế hợp tác vốn có, phản đối việc thành lập các cơ chế khu vực mới, là vì sợ các nước lớn khác sẽ thông qua việc xây dựng các cơ chế mới để loại bỏ Mỹ ra ngoài, hoặc làm cho cơ chế bàn cờ hiện có ở châu Á sẽ càng phức tạp hơn và tổn hại đến lợi ích của Mỹ. Kế hoạch trong năm 2011, Mỹ sẽ tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), với hy vọng sẽ đạt được mục đích can dự vào các hoạt động của khu vực, tuyên truyền quan niệm giá trị của Mỹ, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước mình ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thứ tư, tăng cường tính linh hoạt và tính sáng tạo của Mỹ trong việc tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương. Mỹ dự định từ bỏ vẻ cao ngạo của mình, tham gia toàn diện cơ chế hợp tác nhiều loại hình, đa phương diện và nhiều mức độ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hillary nhấn mạnh: “Chỉ cần có ý nghĩa, Mỹ sẽ can dự vào sự sắp xếp không chính thức đối với các thách thức đặc biệt và sẽ ủng hộ hoạt động của các cơ chế tiểu khu vực để thúc đẩy lợi ích cá nhân.” Song song với việc nhấn mạnh triển khai rộng rãi hợp tác đa phương có tính linh hoạt và tính đa dạng, Mỹ còn coi trọng tính sáng tạo của hợp tác. Chính quyền Obama tích cực phát triển quan hệ với các nước thuộc lưu vực sông Mê Công, tiếp tục triển khai đối thoại chiến lược ba bên với Ôxtrâylia và Nhật Bản, Nhật Bản và Hàn Quốc. Mỹ còn hy vọng xây dựng đối thoại ba bên giữa Trung-Mỹ-Nhật và Nhật-Mỹ-Ấn, từ đó hình thành cơ chế hợp tác khu vực châu Á-Thái Bình Dương đều có Mỹ can dự. Thứ năm, bảo đảm các cơ chế mà khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã xây dựng sẽ bao hàm bên lợi ích liên quan, đặc biệt là sự can dự của Mỹ, điểm này đặc biệt quan trọng đối với Mỹ. 

 

Tóm lại, chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama có thể được gọi là “chiến lược can dự trở lại”, chiến lược này được đưa ra là dựa trên cơ sở xem xét lại chính sách ngoại giao và chính trị cường quyền của chủ nghĩa đơn phương Bush con; là sự mở rộng và khẳng định lại đối với chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Clinton. Phạm vi tư duy của chiến lược này là chủ nghĩa tự do mới, tức là nhấn mạnh hợp tác ngoại giao, chứ không phải đe dọa bằng vũ lực; coi trọng việc tiếp xúc hiểu biết lẫn nhau, chứ không phải đối kháng cô lập; thừa nhận lợi ích chung, chứ không phủ nhận mâu thuẫn, xung đột; nhấn mạnh việc phát triển cơ chế đa phương, chứ không đơn thuần dựa vào liên minh quân sự song phương, từ đó đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng cường quyền lãnh đạo và khống chế của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Điều cần nêu rõ là: “chiến lược can dự trở lại” không phải là chỉ Mỹ quay trở lại, hoặc can dự trở lại công việc ở châu Á-Thái Bình Dương, vì xưa nay Mỹ chưa bao giờ rời khỏi châu Á-Thái Bình Dương, mà là chỉ Chính quyền Obama lại dùng cách tư duy của chủ nghĩa tự do mới để xem xét, xử sự và giải quyết vấn đề châu Á-Thái Bình Dương, về phương pháp luận, chiến lược này đã từ cách tư duy hiện thực của Chính quyền Bush (con), quay trở về thời đại Clinton. Cách làm của Mỹ là lấy cơ chế làm công cụ, lấy hợp tác làm biện pháp nhằm đạt được mục tiêu không chế khu vực châu Á-Thái Bình Dương, điều nay liên quan đến xu thế thay đổi quyền lực ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sức mạnh của Mỹ giảm xuống. 


3. Biện pháp của Chính quyền Obama trong việc thực hiện chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương 


Chính quyền Obama thực thi chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương có một số biện pháp đặc biệt chúng ta cần chú ý: 


Trước tiên, giống như Chính quyền Bush con, Chính quyền Obama từ “bên cân bằng lực lượng” biến thành bên can dự để cân bằng lực lượng. Từ trước đến nay, để khống chế châu Á, Mỹ luôn thực hiện hai nguyên tắc cơ bản, đó là duy trì thế cân bằng lực lượng ở châu Á và bảo đảm sự ổn định ở khu vực này. Thời kỳ đầu khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, vì muốn duy trì thế cân bằng lực lượng ở châu Á, đề phòng bất kỳ Trung Quốc hay Nhật Bản trỗi dậy, Mỹ đã luôn đóng vai “kẻ cân bằng” lực lượng. Từ thời kỳ đầu khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đến trước năm 1996, Mỹ lo lắng Nhật Bản sẽ nói “không”, cho nên giữa hai nước Trung Quốc và Nhật Bản, Mỹ tương đối đề phòng Nhật Bản; sau năm 1996, Mỹ bắt đầu lo lắng Trung Quốc “xưng bá” ở châu Á, cho nên bắt đầu coi trọng vai trò của liên minh Mỹ-Nhật. Do đó, từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc đến trước năm 2001, giữa hai lực lượng mạnh là Trung Quốc và Nhật Bản, Mỹ luôn tự cho rằng mình đang đóng vai trò “kẻ cân bằng”, tức là với thái độ “công bằng xác đáng” Mỹ không bị cuốn vào bất kỳ bên lợi ích nào, đây chỉ là một kiểu vai trò để duy trì ổn định và cân bằng lực lượng trong khu vực. Từ năm 2001, sau khi Bush (con) lên cầm quyền tình hình bắt đầu có thay đổi. Mỹ đã điều chỉnh và tổ chức lại lực lượng trên quy mô lớn đối với quân Mỹ đóng ở Nhật Bản. Máy bay chiến đấu tấn công chiến lược của quân Mỹ đã tiến vào đồn trú ở Tây Thái Bình Dương, điều này có nghĩa là Mỹ đã thay đổi trạng thái tâm lý làm “kẻ cân bằng”, liên kết với các nước đồng minh, để cùng cân bằng phía Trung Quốc. Một số chuyên gia về vấn đề Trung Quốc của Mỹ cho rằng “Chính quyền Bush muốn xây dựng sự bá quyền của mình ở châu Á, luôn tìm cách ngăn chặn bất kỳ quốc gia nào (tức là Trung Quốc) tạo thành thách thức đối với việc khống chế khu vực này của Mỹ, điều này có ‘nghĩa là Chính quyền Bush không chỉ từ bỏ chính sách ngoại giao truyền thống của Mỹ ở châu Á, mà còn muốn tạo ra một thế cân bằng lực lượng mạnh mẽ và có lợi’.” Sau khi lên cầm quyền, Chính quyền Obama không hoàn toàn thay đổi cách cân bằng Trung Quốc của Chính quyền Bush (con) về răn đe quân sự, Mỹ tiếp tục đóng quân ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, nâng cao chất lượng của quân đội Mỹ đóng tại Nhật Bản, duy trì hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo bố trí ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, củng cố quan hệ đồng minh với Nhật Bản, Hàn Quốc, và nhân lúc quan hệ hai bờ (eo biển Đài Loan) phát triển hòa bình lại có ý bán vũ khí cho Đài Loan. Những điều này cho thấy, Chính quyền Obama đang đi tiếp con đường của Chính quyền Bush (con), ý đồ cùng các nước đồng minh như Nhật Bản liên kết với nhau để cân bằng sức mạnh của Trung Quốc. Điều cần phải nêu ra nữa là ngoài việc liên kết các nước đồng minh lại với nhau, Mỹ còn nỗ lực xây dựng một lực lượng hợp tác đa phương khu vực do Mỹ đứng đầu để cân bằng Trung Quốc. Trong một bài học giả Ấn Độ Shehzad H. Qazi đã viết: “sự thay đổi quyền lực là một sự việc hỗn loạn, và đã dẫn đến những rối ren lớn trong lịch sử….Hiện nay, chính sách của Mỹ đã cho thấy rõ một quá trình này, giống như tất cả các nước bá quyền trước kia từng chịu sự suy thoái đau khổ nhưng lại không cam chịu lạc hậu. Giống như mọi người đã dự đoán, trên thực tế, Mỹ đã áp dụng một chính sách mang tính tiến công để phản đối Trung Quốc….Mỹ dùng chiến lược cân bằng lực lượng để đối phó với Trung Quốc. Trước kia, Mỹ thông qua giúp đỡ các nước châu Á-Thái Bình Dương về kinh tế, lợi dụng Nhật Bản,
Việt
Nam và Inđônêxia để cân bằng sức ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày càng tăng. Ngày nay…Mỹ bắt đầu xích gần trong quan hệ với Ấn Độ….” Có thể thấy, đội ngũ cân bằng sức mạnh Trung Quốc của Mỹ vẫn đang tiếp tục được mở rộng. 


Thứ hai, Chính quyền Obama coi cơ chế can dự toàn diện vào khu vực làm biện pháp cơ bản để thực hiện chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương. Nước Mỹ với ý đồ dùng phương thức ngoại giao, thông qua việc can dự và thúc đẩy toàn diện cơ chế hợp tác song phương và đa phương ở châu Á-Thái Bình Dương, để đạt được mục đích phân hóa, chia rẽ, khống chế các bên. Chính quyền Obama đang lợi dụng các cơ chế để chơi trò “Tập đoàn nhỏ”, “thu thập tình báo”, “Lấy di trị di” (nghĩa là lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước, làm cho các nước xung đột với nhau, để làm suy yếu sức mạnh các nước đó). Những biện pháp này phức tạp và khó đối phó hơn nhiều so với chính trị cường quyền trắng trợn của Chính quyền Bush. 


Cuối cùng, Chính quyền Obama lấy việc tuyên truyền quan niệm giá trị nhân quyền và dân chủ của Mỹ làm công cụ dư luận để thực hiện chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương. Trong lịch sử các nhiệm kỳ chính quyền của Mỹ họ đều coi việc truyền bá quan niệm giá trị và dân chủ là nhiệm vụ của mình, Chính quyền Obama cũng không ngoại lệ. Khi tăng cường hợp tác và tiếp xúc toàn diện với các chính quyền ở châu Á, Chính quyền Obama lúc nào cũng lấy “tự do”, “dân chủ” làm lí do để kiềm chế các nước liên quan. Chẳng hạn như tháng 1 năm 2010, bất chấp việc Chính quyền Trung Quốc phản đối kịch liệt, Obama vẫn gặp gỡ Đạtlai Lạtma, và bày tỏ sự ủng hộ Đạtlai Lạtma trong việc bảo tồn nền văn hóa Tây Tạng và phong trào nhân quyền ở Tây Tạng, điều này có liên quan chặt chẽ với việc Mỹ ứng dụng thực lực mềm để đạt được mục tiêu chiến lược. 


4. Ảnh hưởng của chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama 


Thứ nhất, việc Mỹ tích cực tham gia các hoạt động ở châu Á-Thái Bình Dương, trên mức độ nhất định sẽ đóng vai trò tích cực đối với việc giữ gìn ổn định khu vực, ngăn ngừa phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, thúc đẩy hợp tác chống khủng bố và thúc đẩy phát triển kinh tế giữa các nước với nhau. 


Thứ hai, việc Mỹ lấy cơ chế làm công cụ, lấy hợp tác làm biện pháp, để tiếp xúc và can dự toàn diện vào công việc ở châu Á-Thái Bình Dương, sẽ có khả năng làm cho tình hình khu vực châu Á-Thái Bình Dương càng thêm phức tạp. Mục đích cuối cùng trong “chiến lược can dự trở lại” của Mỹ là khống chế và chủ đạo châu Á-Thái Bình Dương một cách mạnh mẽ hơn. Vì vậy, Mỹ sẽ lợi dụng các mâu thuẫn để phân hóa chia rẽ các bên, từ đó thực hiện lợi ích lớn nhất; một số quốc gia khác cũng sẽ lợi dụng sức mạnh của Mỹ, thực hiện mục tiêu của mình trong sự lôi kéo hoặc chia rẽ của Mỹ. Quá trình của cuộc đọ sức và tranh giành lợi ích giữa các bên này là quá trình mâu thuẫn ngấm ngầm, công khai đan xen và phức tạp khó lường, điều này có nghĩa là trong tương lai, vũ đài chính trị khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ thay đổi thất thường hơn. 


Thứ ba, việc Mỹ thực hiện chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương sẽ có khả năng hình thành hình thái chính trị khu vực “Bắc cương Nam hoạt”(Cứng rắn với Triều Tiên, linh hoạt với Hàn Quốc). Chính quyền Obama nhận thấy, với tình hình trong nước của Triều Tiên không xuất hiện những rối ren lớn, Triều Tiên lại sở hữu vũ khí hạt nhân, Trung Quốc và Nga đang giữ gìn ổn định an ninh khu vực Đông Bắc Á, cho nên tình hình bán đảo Triều Tiên rất khó nảy sinh những thay đổi mang tính bi kịch. Vì vậy, dưới tiền đề Mỹ tham gia và ủng hộ đàm phán 6 bên, lợi dụng Nhật Bản và Hàn Quốc để khống chế Triều Tiên, Mỹ sẽ không dồn hết sức lực chủ yếu vào Đông Bắc Á. Ngược lại, Nam Á, Đông Nam Á và châu Úc sẽ là trọng điểm chủ yếu trong chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Tình hình chống khủng bố của Mỹ ở khu vực Nam Á vẫn rất nghiêm trọng, hoạt động của lực lượng khủng bố ở Malaixia và Inđônêxia vẫn là trọng điểm mà Mỹ cần đề phòng. Với tình hình kinh tế thế giới không khởi sắc, Mỹ sẽ tích cực can dự hơn nữa vào các hoạt động của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á-Thái bình Dương (APEC). Các nhà lãnh đạo của Mỹ cho rằng APEC là đối tác thương mại quan trọng của Mỹ, việc phát triển quan hệ thương mại với các nước của tổ chức này có ý nghĩa quan trọng đối với sự hồi sinh của kinh tế Mỹ. Mấy năm gần đây, các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã làm sâu sắc hơn nữa việc thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển chính trị, kinh tế và an ninh giữa các nước. Việc ASEAN thông qua “Tuyên bố Hà Nội”, “Kế hoạch hành động Hà Nội” cho thấy các nước này đang tiếp tục nâng cao sức sống và tình đoàn kết của đại gia đình ASEAN. Sau khi lên nhậm chức, việc Obama và Hillary lần lượt gặp gỡ lãnh đạo 10 nước ASEAN và tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), có thể thấy họ rất coi trọng quan hệ đối với ASEAN. Ngoài ra, Mỹ còn mở rộng quan hệ hơn nữa với Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niu Dilân, để có thể tìm được nhiều sự đột phá hơn trong việc tăng cường sức ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. 


Thứ tư, mục tiêu trong chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ đã quyết định Mỹ sẽ có thể hình thành nhiều cản trở hơn đối với sự phát triển và an ninh của Trung Quốc. Thứ nhất, cách làm của Mỹ là tích cực chủ đạo và can dự để cân bằng sức mạnh Trung Quốc sẽ phá vỡ thế cân bằng lực lượng vốn có ở Đông Á. Thứ hai, Chính quyền Obama tiếp tục lợi dụng vấn đề Đài Loan để kiềm chế Trung Quốc, làm cho vấn đề Đài Loan ngày càng khó giải quyết. Thứ ba, trong cơ chế hợp tác an ninh châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ đang chơi trò ngoại giao, có ý kéo dãn khoảng cách giữa các nước châu Á bằng phương thức hợp tác “Tập đoàn nhỏ”, làm cho môi trường an ninh của Trung Quốc càng thêm phức tạp và không minh bạch. Thứ tư, hợp tác kinh tế Mỹ-Trung tuy có lợi cho sự phát triển của kinh tế hai nước, nhưng xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích của Mỹ, Mỹ sẽ đề phòng Trung Quốc hơn. Tại Quốc hội, Obama công khai cho rằng ông sẽ “áp dụng các biện pháp cứng rắn hơn nữa đối với Trung Quốc để bảo đảm chắc chắn sự mở rộng thị trường của Trung Quốc đối với Mỹ.” Sau khi Chính quyền Obama lên cầm quyền, Mỹ đã gây khó khăn cho Trung Quốc trong rất nhiều mặt như săm lốp, tỷ giá hối đoái, giấy không tráng, ống thép dẫn dầu. Cuối cùng, cách mà Mỹ lợi dụng vấn đề nhân quyền để làm xói mòn Trung Quốc, có khả năng nguy hại đến vấn đề dân tộc, tôn giáo vốn đã phức tạp trong nước, thậm chí cả vấn đề thống nhất đất nước của Trung Quốc. 


Tóm lại, tư tưởng chủ chốt trong chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama là can dự, và kết cấu nội dung của chiến lược này là: can dự+cân bằng lực lượng+răn đe, trong đó can dự ngoại giao chiếm 5 điểm, cân bằng lực lượng chiếm 3 điểm, răn đe quân sự chiếm 2 điểm. Tình thế của chiến lược này là tiến công mở rộng chứ không phải là thu hẹp. Vấn đề mấu chốt mà chiến lược an ninh châu Á-Thái Bình Dương của Chính quyền Obama đang phải đối mặt là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mặc dù khi Obama tranh cử, lần đầu tiên Trung Quốc không trở thành đề tài tranh luận trong nước Mỹ, trong thời gian đến thăm Trung Quốc của Obama, Chính quyền Mỹ nêu rõ: “Mỹ nhắc lại, Mỹ hoan nghênh nhìn thấy một Trung Quốc hùng mạnh, phồn vinh và phát huy thành công vai trò lớn hơn trong các công việc của thế giới.” Nhưng, một năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính làm suy thoái toàn nước Mỹ và hiện nay nền kinh tế Trung Quốc không ngừng phát triển theo hướng tốt, sức ép trong nước Mỹ đối với Chính quyền Obama ngày càng lớn. Mặc dù về điểm chung lợi ích, khả năng hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn ngày càng tăng, nhưng đằng sau của những điểm chung này vẫn ẩn giấu những mâu thuẫn đan xen lẫn nhau. Hiện nay, nguồn gốc chính của mâu thuẫn Trung-Mỹ là sức mạnh của Mỹ giảm xuống và sức mạnh của Trung Quốc tăng lên, tạo nên sự lo ngại và buồn phiền cho Mỹ. Với tình hình sức mạnh của hai nước tiếp tục phát triển theo hướng trái ngược thì những sự lo ngại và buồn phiền này của Mỹ sẽ tiếp tục tăng lên, vì vậy, mâu thuẫn hai nước rất có thể sẽ không ngừng tăng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức tỉnh táo đối với sự phát triển của quan hệ Trung-Mỹ sau này, để sớm tìm chính sách đối phó./.

 

Bài đăng trên Tạp chí “Hòa bình và phát triển”, Trung Quốc, số 2/2010