Những tranh chấp ở Biển Đông là vô cùng phức tạp khiến việc tìm ra những giải pháp đơn giản là không thể. Sẽ cần đến nhiều biện pháp giải quyết tranh chấp khác nhau để đối phó với từng thời gian, địa điểm và vấn đề khác nhau. Về nguyên tắc, đàm phán, dù là đa phương hay song phương, dĩ nhiên vẫn là hình thức ưu việt. Tuy nhiên, cũng giống như tất cả các hình thức khác, đàm phán có những hạn chế và thường cần phải bổ sung bằng những biện pháp khác.

Xin hãy xem bài phát biểu ngắn của tôi hôm nay như một lời kêu gọi tới các quốc gia tranh chấp: hãy coi trọng hơn vai trò của tòa án quốc tế và tòa trọng tài quốc tế đối với quá trình giải quyết tranh chấp.

Tất nhiên, tôi không lấy gì làm lạ với kiểu từ chối xưa nay của các quốc gia đối với biện pháp này, đặc biệt là của các cường quốc kể cả Mỹ, do không muốn bị mất kiểm soát đối với kết quả của những tranh chấp bằng cách để cho một bên thứ ba khách quan đưa ra phán quyết cuối cùng. Tuy vậy, hoàn cảnh và quan điểm có thể và đã thay đổi, và tôi tin rằng đã đến lúc các người chơi/chủ thể chính ở Biển Đông nhận ra, như Phillipines đã nhận ra trong một số tình huống mà họ đối mặt, rằng các lợi ích của việc giải quyết tranh chấp thông qua một bên thứ ba khách quan có thể vượt xa các rủi ro mà nó có thể gây ra.

Tôi cho rằng tình trạng đối đầu ngày càng nguy hiểm gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến vấn đề chủ quyền tại Quần đảo Hoàng Sa là một trường hợp như vậy. Trung Quốc nói rằng họ sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về cuộc khủng hoảng gây ra do việc hạ đặt giàn khoan của nước này ngoài khơi Quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, cho đến nay, các báo cáo đều cho thấy, Bắc Kinh luôn từ chối đàm phán về vấn đề khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở Quần đảo Hoàng Sa – cũng chính là vấn đề trọng yếu của vụ tranh chấp ngoài khơi này.

Trung Quốc và Việt Nam đã đàm phán thành công các tranh chấp biên giới ở Vịnh Bắc Bộ và đường biên giới trên bộ. Tuy nhiên, Trung Quốc – là bên hiện đang chiếm đóng Quần đảo Hoàng Sa duy trì quan điểm không đàm phán đối với chủ quyền các thực thể đất liền trong khu vực này. Trung Quốc không thừa nhận có “tranh chấp” ở Quần đảo Hoàng Sa bởi nước này tuyên bố “chủ quyền không tranh cãi” tại đây. Quan điểm này cũng giống quan điểm của Nhật đối với Quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư mà nước này chiếm đóng, sẽ loại trừ khả năng trung gian hay hoà giải, dù là thông qua ASEAN, trong trường hợp tổ chức này có ý định thực hiện việc đó.

Nhiều nhà quan sát đã kiến nghị rằng các bên có thể giải quyết tranh chấp lãnh thổ này bằng cách gác tranh chấp và hợp tác cùng khai thác nguồn tài nguyên đáy biển có giá trị nằm ở ngoài khơi. Tuy vậy, chính vì những bất đồng và sự mất lòng tin sâu sắc bắt nguồn từ các yêu sách lãnh thổ đối lập nhau, việc thực hiện ý tưởng trên có vẻ nói dễ hơn làm.

Thật vậy, sự thất bại rõ ràng của các thoả thuận kêu gọi hợp tác khai thác chung giữa Trung Quốc và Việt Nam vào các năm 2011 và 2013 đã là những minh chứng sinh động cho sự thật này. Mặc dù bản thoả thuận ngắn năm 2011 đã nhấn mạnh không dưới hàng chục lần về việc hợp tác sẽ chỉ giới hạn trong các vấn đề “liên quan đến biển”, nhưng hợp tác vẫn không thể trở thành hiện thực bởi vì vấn đề “liên quan đến biển” quan trọng nhất vẫn không thể tránh khỏi việc liên quan đến chủ quyền của các đảo lân cận!

Việc sử dụng vũ lực ngày càng tỏ ra đang là một lựa chọn khá hấp dẫn với các bên tham gia, đặc biệt là Trung Quốc - nước đã dùng vũ lực để chiếm quyền kiểm soát Quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và đánh chiếm Đảo Gạc Ma thuộc Quần đảo Trường Sa từ tay Việt Nam vào năm 1988. Trung Quốc ngày một mạnh hơn về mặt quân sự và ngày càng tỏ ra quyết đoán đối với các yêu sách ở Biển Đông, đối đầu không chỉ với Việt Nam mà còn cả các quốc gia khác trong khu vực.

Điều này lý giải vì sao Philippines, cũng ở trong hoàn cảnh tương tự như Việt Nam hiện nay, vào tháng 1/2013 đã quyết định thực hiện vụ kiện trọng tài nổi tiếng chống lại Trung Quốc thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của UNCLOS mà Trung Quốc, Philippines và Việt Nam đều là thành viên. Để bảo vệ mình trước cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc, Philippines đã lựa chọn sử dụng luật pháp quốc tế không phải như một công cụ khoa trương để làm rõ và củng cố quan điểm ngoại giao của mình, mà là một biện pháp để đạt được một phán quyết khách quan đối với các tranh chấp biển giữa hai quốc gia này.

Luật quốc tế luôn được coi là vũ khí phòng thủ có giá trị với kẻ yếu hơn là với kẻ mạnh, giống như nhận định của triều đình phong kiến Trung Quốc khi lần đầu tiên du nhập luật quốc tế Phương Tây vào những năm 1860. Các quốc gia láng giềng đủ khôn ngoan để sử dụng tòa án quốc tế hay trọng tài quốc tế đối với các tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải không thể giải quyết bằng con đường đối thoại và ngoại giao đã được hưởng nhiều lợi thế khi viện đến luật pháp quốc tế. Ngoài việc có thể đi đến một phán quyết khách quan có đầy đủ thẩm quyền đối với các vấn đề pháp lý phức tạp, biện pháp này tránh được các đụng độ bạo lực, chiến tranh và những hệ quả xấu khác khi chủ nghĩa dân tộc vượt ngoài tầm kiểm soát, trong khi vẫn tiếp tục duy trì các hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, trao đổi văn hóa và hợp tác khác.

Tuy vậy, các nhà lãnh đạo chính trị thường lo ngại rằng một tòa án công bằng có thể sẽ phủ định các tuyên bố hùng hồn trước đây của họ rằng luật pháp quốc tế hoàn toàn ủng hộ lập trường của nước mình. Đối với họ, rủi ro chính trị trong nước và quốc tế từ một phán quyết công bằng dường như không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, một quyết định của bên thứ ba không nhất thiết là một kết quả “được ăn cả, ngã về không”. Những loại vấn đề không thể giải quyết thông qua đàm phán giữa các quốc gia láng giềng mà phải cần đến một phán quyết khách quan của bên thứ ba thường rất ít khi dẫn đến kết quả thắng lợi hoàn toàn cho bất cứ bên nào. Thay vào đó, kết quả thường là những phán quyết với nhiều thang bậc khác nhau, trên thực tế chính là những thỏa hiệp được tính toán cẩn thận thể hiện mức độ phức tạp của các yêu sách đang được xem xét. Điều này đã được thể hiện trong một số phán quyết “sáng tạo” của Tòa án Công lý Quốc tế cũng như của các tòa án trọng tài quốc tế.

Vào tháng 10/2012, trên tờ “South China Morning Post” của Hong Kong và tờ “China Times” của Đài Loan, tôi đã đăng một bài viết khi chứng kiến sự thù địch gia tăng giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở Biển Hoa Đông. Với đầu đề “A Wiser Course” (Một hướng đi khôn ngoan hơn), bài viết kêu gọi các quốc gia ở Đông Á chấm dứt các hành động khiêu khích ăn miếng trả miếng nguy hiểm của mình đối với các đảo tranh chấp trước khi chiến tranh nổ ra và cho phép một tòa án công bằng phân xử các yêu sách của họ: Bằng những ngôn từ phản ánh luôn được cả thực trạng ở Biển Đông, tôi đã miêu tả tình hình ở Biển Hoa Đông như sau:

“Các lời thề bảo vệ chủ quyền quốc gia đầy cảm tính, những tuyên truyền một phía, các cuộc biểu tình có tổ chức, các biện pháp trừng phạt kinh tế theo kiểu tự hủy hoại, và các cuộc đụng độ của lực lượng hải giám đang đe dọa sẽ làm mất đi tất cả những thành công mà khu vực đã đạt được.”

Tôi khẩn thiết cho rằng Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia Đông Á khác, nếu không muốn đưa các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của mình ra Tòa án Công lý Quốc tế, hãy thành lập một tòa trọng tài công bằng ở khu vực như một diễn đàn trung lập để phân xử các tranh chấp lãnh thổ đảo. Tôi xin nhấn mạnh rằng, thay vì khua chiêng múa trống ủng hộ chủ nghĩa dân tộc một cách thiếu thận trọng, đã đến lúc các quốc gia Đông Á xử lý việc tranh chấp đảo theo một cách “chín chắn” như khi họ đối mặt với các tranh chấp quốc tế khác. Việc này sẽ điều chỉnh các luồng sức mạnh dân tộc theo hướng tích cực và xây dựng.

Tôi đã khá thất vọng với các phản ứng không chính thức của các nhà cựu ngoại giao Mỹ có kinh nghiệm lâu năm ở Đông Á đối với các đề xuất của mình. Họ cho rằng việc dựa vào thể chế pháp lý quốc tế sẽ chỉ làm tình hình đã khó còn trở nên khó khăn hơn. Tuy vậy, trước sự bất ngờ của tôi, chỉ chưa đầy một tháng sau, Bộ trưởng Ngoại giao Nhật khi đó là Koichiro Gemba đã đăng một bài xã luận trên tờ “International Herald Tribune” thách thức Trung Quốc kiểm chứng yêu sách của mình ở quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư bằng việc đệ đơn kiện Nhật Bản ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.

Gemba tự hào cho rằng Nhật Bản đã thể hiện niềm tin vào luật pháp quốc tế lớn hơn nhiều so với Trung Quốc và Mỹ thông qua việc chấp nhận thẩm quyền bắt buộc của Tòa án Công lý Quốc tế. Nhật Bản cam kết tuân thủ phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế đối với bất kỳ yêu sách nào được đưa ra bởi một nước khác cũng chấp nhận thẩm quyền bắt buộc của Tòa án Công lý Quốc tế. Ông Gemba đã đưa ra câu hỏi rằng nếu Trung Quốc tự tin đến như vậy đối với lập trường pháp lý của mình đối với quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư, tại sao Trung Quốc không kiện Nhật Bản ra trước Tòa án Công lý Quốc tế?

Tôi rất phấn khích trước thông điệp mà ông Gemba đưa ra bởi nó dường như hứa hẹn một bước tiến quan trọng đến đề xuất mà những người bạn ngoại giao của tôi cho là “không thực tế” và “vô ích”. Trước đây, Nhật Bản đã từng tìm cách để đưa Hàn Quốc ra trước Tòa án Công lý Quốc tế để giải quyết tranh chấp từ lâu giữa họ đối với Đá Dokdo/ Takeshima. Tuy nhiên, Hàn Quốc với tư cách là bên chiếm đóng lãnh thổ tranh chấp, đã không tỏ ra quan tâm cũng như không hề có nghĩa vụ pháp lý nào phải chấp nhận sự phán xét của tòa.

Điều thú vị trong bài xã luận của ông Gemba là việc Nhật Bản, dù là bên chiếm đóng Quần đảo Điếu Ngư/ Senkaku tranh chấp, vẫn chấp nhận để Trung Quốc đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế không giống như Hàn Quốc. Và bằng việc đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế, Nhật Bản cuối cùng cũng sẽ từ bỏ quan điểm không có cơ sở và chỉ mang tính hình thức rằng tranh chấp này giữa Trung Quốc và Nhật Bản không phải là “tranh chấp”.

Bài xã luận của Gemba đã cho tôi tia hy vọng đầu tiên về việc các quốc gia láng giềng của Trung Quốc sẽ có thể thấy được giá trị của việc sử dụng các tòa án pháp lý quốc tế trong các tranh chấp ở ngoài khơi của họ với Trung Quốc. Tuy nhiên, chính phủ của Ngoại trưởng Gemba đã nhanh chóng bị thay thế bởi chính phủ của Thủ tướng Abe. Việc ông Abe là một người theo chủ nghĩa dân tộc khiến tôi hoài nghi về khả năng chính quyền của ông sẽ ủng hộ quan điểm của Gemba – một quan điểm nhận được rất ít sự chú ý.

Tiếp sau đó là một diễn biến vô cùng bất ngờ khác. Vào tháng 1/2013, Philippines tuyên bố nước này sẽ bắt đầu vụ kiện chống Trung Quốc thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của UNCLOS đối với một số vấn đề ở Biển Đông liên quan đến cách giải thích UNCLOS.

Không giống với thông điệp của Gemba, nhiều nhất chỉ có thể xem như một thách thức không chính thức về mặt ngoại giao, dù được đưa ra bởi một cường quốc, hành động của Philippines là một thách thức pháp lý chính thức đối với Trung Quốc. Nó đặt nghi vấn cách giải thích của Trung Quốc về các quyền của họ theo UNCLOS, bao gồm cả sự liên hệ giữa UNCLOS và yêu sách “đường chín đoạn” rộng lớn nhưng mập mờ của Trung Quốc. Đột nhiên, nhờ bước đi phiêu lưu nhưng dũng cảm của Philippines, ý tưởng về việc các quốc gia láng giềng của Trung Quốc có thể bảo vệ mình bằng cách viện dẫn đến luật pháp quốc tế trước một tòaán quốc tế công bằng đã trở thành hiện thực!

Tôi đã thất vọng nhưng không lấy gì làm ngạc nhiên trước việc Trung Quốc từ chối chấp nhận tham gia tòa trọng tài UNCLOS. Các bị đơn tại các tòa trọng tài UNCLOS trước đây đã xuất hiện trước tòa để cố gắng bác bỏ vụ kiện chống lại họ, bao gồm cả việc tuyên bố rằng tòa án không có thẩm quyền. Thật đáng buồn khi Trung Quốc quyết định tự trở thành thẩm phán trong vụ kiện của mình và từ chối trả lời các yêu sách của Philiipines.

Thật may mắn, các điều khoản của UNCLOS đã dự đoán trước được khả năng này và cho phép tiếp tục tiến hành và hoàn tất vụ kiện kể cả trong trường hợp bên bị đơn vắng mặt. Nếu tòa án quyết định mình có thẩm quyền phán xét đối với các vấn đề được đưa ra, và Philippines chứng minh được lập trường của mình trong vụ kiện, thì Trung Quốc sau đó sẽ phải quyết định hoặc là tuân theo quyết định của tòa án, hoặc là chấp nhận sự lên án của cộng đồng quốc tế khi từ chối phán quyết này.

Trong trường hợp tòa án cho rằng mình có thẩm quyền phán xét, điều này hé mở khả năng về việc làm rõ một số điều khoản quan trọng của UNCLOS. Chẳng hạn, đến mức độ nào thì các yêu sách lịch sử, như Trung Quốc vẫn sử dụng, sẽ được chấp nhận theo UNCLOS? Và đâu là một phép kiểm chứng pháp lý chính xác theo Điều 121 UNCLOS để phân biệt giữa “đảo” – được hưởng vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa, và “đá” – là thực thể chỉ có vùng lãnh hải? Câu trả lời cho những câu hỏi này không chỉ tạo thuận lợi cho các đàm phán song phương giữa Trung Quốc và Philippines mà còn hỗ trợ cho nhiều quốc gia ở Châu Á và trên thế giới khác đang gặp phải những vấn đề tương tự.

Bước đi của Philippines đã cho tôi hy vọng về việc các quốc gia bị quấy rối bởi các yêu sách ngoài khơi của Trung Quốc và các hành động cứng rắn của nước này nhằm khẳng định yêu sách sẽ theo đuổi các hành động pháp lý tương tự. Nhật Bản là một ví dụ điển hình. Thay vì chỉ dựa vào hệ thống phòng thủ ấn tượng của mình, hiệp ước an ninh với Mỹ và khả năng thực hiện trừng phạt kinh tế hay các biện pháp khác để đẩy lùi các yêu sách của Trung Quốc, chính phủ của thủ tướng Abe vẫn còn lựa chọn thực thi ý tưởng của Gemba, không chỉ đối với tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc mà còn trong các vấn đề UNCLOS Trung – Nhật ở Biển Hoa Đông và Biển Đông. Tuy vậy, cho đến nay, Nhật Bản vẫn luôn im lặng về vấn đề này. Vậy chúng ta nên hiểu sự im lặng này như thế nào?

Một điều thật thú vị là, vào tháng 4/2013, tôi đã được các chuyên gia ở Bộ Ngoại giao Nhật Bản cho biết, trái ngược với những gì các nhà quan sát Châu Á của Mỹ tin tưởng, thông điệp của Gemba không phải chỉ là sáng kiến của riêng cá nhân ông ấy. Đó không phải chỉ là một động thái quan hệ công chúng của một chính trị gia sắp rời nhiệm sở. Trái lại, đó là một đề xuất chính thức được cân nhắc kỹ lưỡng bởi các chuyên gia pháp lý trong Bộ Ngoại giao Nhật Bản theo yêu cầu của ông Gemba. Việc này đã biến đề xuất của ông Gemba, đề xuất mà tôi chưa thấy phản ứng nào từ phía Trung Quốc, trở nên quan trọng hơn nhiều.

Rất gần đây, khi được hỏi về vai trò của bài xã luận của Gemba, trong một cuộc đàm thoại không chính thức, một nhà ngoại giao cấp cao của Nhật Bản đã nhấn mạnh rằng chính phủ của ông Abe chưa bao giờ bác bỏ quan điểm của Gemba. Theo ông ấy, điều này có nghĩa là quan điểm đó được coi là chính sách chính thức của chính phủ Nhật Bản. Sau đó, tại một cuộc tiếp xúc của Hiệp hội Nhật Bản tại New York, nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Yoriko Kawaguchi đã trả lời một câu hỏi theo cách tương tự.

Bên cạnh việc đề xuất Nhật Bản và Trung Quốc giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua Tòa án Công lý Quốc tế, Nhật Bản có một lựa chọn nữa ở Biển Hoa Đông liên quan đến Trung Quốc. Đó là việc quyết định theo đuổi để đạt được một phán quyết của tòa án UNCLOS về các vấn đề luật biển quan trọng liên quan đến tranh chấp Senkaku/ Điếu Ngư. Chẳng hạn như theo Điều 121(3) của UNCLOS, những thực thể tranh chấp nào có thể xem là “đá” và chỉ có vùng lãnh hải rộng 12 hải lý, hay là “đảo” với vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý và thềm lục địa. Nếu phán quyết cho rằng chúng chỉ là “đá”, nó sẽ làm giảm đáng kể ý nghĩa kinh tế và thậm chí là chính trị của tranh chấp về việc ai sở hữu lãnh thổ. Đó sẽ là một đóng góp quan trọng vào tiến trình giải quyết dứt điểm tranh chấp.

Ngoài các đề xuất cho khu vực Đông Á, Nhật Bản còn có một lựa chọn khác đối với các tranh chấp ở Biển Đông. Mặc dù Nhật Bản không nằm ở Biển Đông, nhưng nước này có lợi ích lớn trong việc duy trì tự do hàng hải ở vùng biển này bởi nó rất thiết yếu đối với nền thương mại và an ninh Nhật Bản, cũng như trong việc tối đa hoá khả năng tiếp cận của Nhật Bản với các nguồn tài nguyên kinh tế trong khu vực. Việc khẳng định “đường chín đoạn” của Trung Quốc, dù phạm vi chính xác là như thế nào, ít nhất cũng mở rộng vùng đặc quyền kinh tế EEZ của Trung Quốc lên gấp nhiều lần. Và Trung Quốc, như minh chứng qua các vụ đụng độ với máy bay và tàu do thám của Mỹ, yêu sách các quyền hạn rộng lớn trên vùng EEZ của mình. Tôi đề xuất Nhật Bản nên cân nhắc đưa “đường chín đoạn” ra tòa trọng tài UNCLOS như Philippines đã làm.

Nước Mỹ, dĩ nhiên, cũng có lý do tương tự để phản đối “đường chín đoạn” vì Mỹ cũng có lợi ích lớn đối với tự do hàng hải ở Biển Đông và việc tiếp cận các nguồn tài nguyên kinh tế ở khu vực này. Thật không may, việc Mỹ vẫn chưa phê chuẩn UNCLOS khiến nước này không thể tận dụng lợi thế thông qua hệ thống giải quyết tranh chấp của UNCLOS, ngay cả khi Tổng thống Obama gần đây đã nói với Tổng thống Aquino rằng nước Mỹ “ủng hộ quyết định của ông trong việc theo đuổi tòa trọng tài quốc tế đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.” Chắc chắn Mỹ có thể khởi kiện chống lại Trung Quốc về vấn đề này trước Tòa án Công lý Quốc tế, nhưng Trung Quốc không có nghĩa vụ phải chấp nhận thẩm quyền phán xét của Tòa án Công lý Quốc tế trong bất kỳ trường hợp nào, và bản thân nước Mỹ cũng có một lịch sử không mấy tốt đẹp với Tòa án Công lý Quốc tế. Khác với Tòa án Công lý Quốc tế, UNCLOS mang đến một khả năng thực tế hơn nhiều, tuy vẫn không hoàn toàn chắc chắn, về việc đạt được một phán quyết ràng buộc đối với Trung Quốc khi nước này vẫn cương quyết chống lại sự phân xử của bên thứ ba và tòa trọng tài như vụ kiện của Philippines đã minh chứng.

Tôi hy vọng rằng với việc căng thẳng gần đây đối với hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc ngoài khơi Quần đảo Hoàng Sa mới đây sẽ giúp Mỹ có đủ động lực chính trị nội bộ để thúc đẩy Thượng viện “đồng ý và thông qua” sự tham gia của Mỹ vào UNCLOS. Tuy nhiên, điều đó sẽ đòi hỏi một sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì Tổng thống Obama đã thể hiện liên quan tới vấn đề này.

Vậy còn Việt Nam thì sao? Có rất nhiều lý do cho thấy Việt Nam gặp khó khăn hơn nhiều so với Philippines, Nhật Bản và Mỹ trong việc tìm kiếm sự hỗ trợ của một tòa án quốc tế liên quan đến các tranh chấp với Trung Quốc. Tuy nhiên, xét đến các tranh cãi liên quan đến việc hạ đặt giàn khoan khá bất ngờ, các tuyên bố chính thức gần đây cho thấy chính phủ Việt Nam đang tiến gần hơn đến việc thực hiện biện pháp này. Một hướng đi như vậy sẽ giúp xoa dịu người biểu tình trong nước, những người đã bị cấm thực hiện các hành vi bạo lực quá khích để thể hiện sự phản đối của mình. Theo một báo cáo gần đây của Reuters, một người Việt Nam yêu nước đã nói rằng: “Chúng tôi đã ký đơn yêu cầu chính phủ kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế”.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng sau đó đã liên tục được báo chí thế giới đưa tin liên quan đến vấn đề này. Vào ngày 22/5/2014, trong một văn bản trả lời hãng thông tấn Associated Press (AP) nhân chuyến thăm Manila được công bố rộng rãi và mang tính tượng trưng cao của Thủ tướng nhằm thể hiện sự ủng hộ chính trị đối với Philippines trong việc đối phó với Trung Quốc, Thủ tướng đã tuyên bố: “Cũng giống như các quốc gia khác, Việt Nam đang xem xét nhiều lựa chọn phòng thủ khác nhau, bao gồm cả các biện pháp pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế.” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không nói rõ những biện pháp pháp lý nào đang được cân nhắc, nhưng tại cuộc họp báo với Tổng thống Aquino trong cùng ngày ông đã tuyên bố: “Ngài tổng thống và tôi chia sẻ mối quan ngại sâu sắc đối với tình trạng vô cùng nguy hiểm hiện nay gây ra do các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc.” Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã công khai kêu gọi Việt Nam “đưa ra đánh giá xem liệu việc sử dụng các biện pháp pháp lý có phục vụ cho lợi ích quốc gia của mình hay không,” và các tuyên bố gần đây hơn cho thấy khả năng Việt Nam hoặc có thể tìm cách tham gia vào vụ kiện của Philippines hoặc khởi động một vụ kiện riêng lên tòa trọng tài UNCLOS.

Tất nhiên trên thực tế, Việt Nam cần phải cân nhắc ít nhất là hai lựa chọn pháp lý quốc tế khác nhau. Giống như trường hợp của Nhật Bản, Việt Nam có thể chọn một trong hai hoặc cả hai, tuỳ thuộc vào từng vấn đề mà quốc gia này muốn theo đuổi.

Chẳng hạn như nếu Việt Nam muốn sử dụng sự phân xử của tòa án để thách thức việc Trung Quốc thực hiện chủ quyền ở Quần đảo Hoàng Sa, trừ khi các bên đồng ý chấp nhận thẩm quyền của một thể chế khách quan khác, Việt Nam sẽ phải đưa vụ việc của mình ra trước tòa Tòa án Công lý Quốc tế. Như chúng ta đã biết, chủ quyền lãnh thổ nhìn chung không thuộc thẩm quyền của UNCLOS.

Trung Quốc chắc chắn sẽ không chấp nhận thẩm quyền phán xét của Tòa án Công lý Quốc tế, vì không giống với UNCLOS, Trung Quốc không có cam kết hiệp ước nào chấp nhận thẩm quyền phán xét của Tòa án Công lý Quốc tế đối với các tranh chấp. Dù vậy, Việt Nam vẫn sẽ đạt được một số lợi ích nhất định trong việc kêu gọi sự trợ giúp từ Tòa án Công lý Quốc tế, không chỉ nhằm xoa dịu dư luận trong nước mà còn để thể hiện cho thế giới thấy được mong muốn chân thành của mình về một giải pháp hòa bình và công bằng.

Sự chân thành của Việt Nam sẽ càng được thể hiện rõ ràng hơn nếu nước này thể hiện mong muốn, trong vụ kiện liên quan, đệ trình lên Tòa án Công lý Quốc tế các yêu sách lãnh thổ của mình ở Quần đảo Trường Sa, bao gồm cả các đảo và thực thể mà Việt Nam đang quản lý. Là bên chiếm đóng ở Quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đương nhiên sẽ tìm cách để tránh khỏi các tranh cãi chủ quyền ở đây, tương tự như việc Nhật Bản, cho đến nay, vẫn từ chối về việc có “tranh chấp” ở quần đảo Senkaku và việc Hàn Quốc từ chối thẩm quyền của Tòa án Công lý Quốc tế đối với đảo Dokdo.

Nhìn rộng hơn, như chúng ta đã thấy, Trung Quốc cho đến nay đã từ chối mọi phân xử của tòa án liên quan các yêu sách lãnh thổ như một nguyên tắc, cho dù nước này có là bên chiếm đóng lãnh thổ tranh chấp hay không. Thật vậy, Trung Quốc đang tìm cách thuyết phục các quốc gia khác rằng bản Tuyên bố Ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 (DOC) nên được hiểu là đã loại trừ việc sử dụng hệ thống phân xử bằng tòa án và tòa trọng tài quốc tế như một công cụ để giải quyết hoà bình các tranh chấp.

Chẳng hạn, với niềm tin rằng DOC là một thoả thuận mang tính ràng buộc hơn là một tuyên bố bày tỏ ý định không ràng buộc, Trung Quốc lập luận rằng Philippines đã vi phạm DOC khi kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài UNCLOS. Quan điểm của tôi cho rằng các quốc gia không nên áp đặt diễn giải cực đoan như vậy đối với ngôn ngữ không mấy rõ ràng của DOC. Cách diễn giải này đi rất xa so với các điều khoản đã được thống nhất từ lâu trong Hiến chương Liên Hợp Quốc về việc giải quyết hoà bình các tranh chấp và trên thực tế sẽ khiến các quốc gia không thể sử dụng một tòa án công bằng và khách quan như một vũ khí phòng thủ quan trọng.

Việc này dẫn đến lựa chọn thứ hai cho Việt Nam - kiện Trung Quốc ra tòa trọng tài UNCLOS như Philippines đã làm và Trung Quốc đã bác bỏ. Điều này cho phép Việt Nam đưa ra những hỗ trợ pháp lý chính thức đối với vụ kiện “đường chín đoạn” của Philippines đồng thời nêu lên các vấn đề khác liên quan đến UNCLOS trong quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và các bên yêu sách còn lại. Mặc dù Trung Quốc chắc chắn sẽ đưa ra các phản đối tương tự những gì mà nước này đã nêu trong vụ kiện của Philippines lên tòa UNCLOS, nhưng một vụ kiện như vậy từ phía Việt Nam ít nhất cũng sẽ đến được vòng xét xử như trường hợp của Phillipines kể cả khi Trung Quốc phản đối.

Một vụ kiện ra tòa trọng tài UNCLOS như vậy có thể sẽ không mang đến cho Việt Nam một giải pháp trong tranh chấp nguy hiểm hiện tại với Trung Quốc về việc hạ đặt giàn khoan. Việc này chỉ xảy ra khi các trọng tại đưa ra phán quyết coi toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa chỉ là “đá” theo Điều 121(3) của UNCLOS và vì thế không được hưởng một vùng đặc quyền kinh tế.

Tuy nhiên, bằng việc thách thức tính pháp lý của “đường chín đoạn”, trên thực tế, Việt Nam có thể tăng khả năng yêu sách bành trướng của Trung Quốc bị tòa trọng tài thành lập trong vụ kiện của Philippines coi là vô giá trị, hoặc bởi bất kỳ tòa án nào được lập nên sau đó để thụ lý các vụ án của Việt Nam. Hơn nữa, tuỳ thuộc vào các tranh chấp biển khác mà Việt Nam đưa ra tòa án UNCLOS, Việt Nam có thể có được những cách giải thích khác có thể có lợi trong việc tiến tới một giải pháp thông qua đàm phán cho các yêu sách phức tạp ở Biển Đông.

Tôi hy vọng rằng những phân tích trên đây sẽ lý giải cho đề xuất của tôi rằng các quốc gia tranh chấp ở Biển Đông và Biển Hoa Đông nên tận dụng nhiều nhất có thể các cơ hội để nhận được sự hỗ trợ từ Tòa án Công lý Quốc tế và hệ thống UNCLOS trong việc giải quyết các tranh chấp của họ với Trung Quốc. Nếu các quốc gia này làm như vậy, nó sẽ thúc đẩy Trung Quốc cũng như các quốc gia khác phải thận trọng hơn trong việc đưa ra các yêu sách, hành động và cân nhắc kỹ lưỡng hơn đến lợi ích của các phán quyết khách quan của bên thứ ba. Những phán quyết như vậy có thể loại bỏ một số vấn đề pháp lý gai góc hiện đang cản trở con đường hướng tới giải pháp đàm phán hoà bình các tranh chấp. Ví dụ, nếu UNCLOS bác bỏ hoàn toàn các yêu sách lịch sử của “đường chín đoạn”, điều đó sẽ loại bỏ một chướng ngại lớn trong việc giải quyết tranh chấp, và cách giải thích và áp dụng Điều 121(3) của UNCLOS về các thực thể biển cụ thể cũng sẽ hỗ trợ việc làm rõ và tập trung vào đàm phán. Hơn nữa, chính việc sử dụng các quy trình pháp lý chính thức sẽ thúc đẩy tiến trình đàm phán hiện đang gặp nhiều bế tắc.

Cuối cùng là một nhận xét về việc Trung Quốc bác bỏ quyền phân xử của tòa án và tòa trọng tài quốc tế và nhấn mạnh việc sử dụng đàm phán song phương như biện pháp hợp pháp duy nhất để giải quyết các tranh chấp ngoài khơi. Tất nhiên, Trung Quốc không thực sự chấp nhận đàm phán song phương hay bất kỳ hình thức giải quyết tranh chấp hoà bình nào khác liên quan đến các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với các thực thể trên biển mà nước này đang chiếm đóng. Hơn nữa, bằng việc bác bỏ các phán quyết của các thể chế khách quan đối với tất cả các tranh chấp và khăng khăng việc sử dụng đàm phán song phương như là biện pháp duy nhất để giải quyết những tranh chấp mà nước này thừa nhận, Trung Quốc - với vai trò là nước mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á - đang tìm cách tối đa hòa các lợi thế tương đối của mình về chính trị, kinh tế và sức mạnh quân sự và giảm thiểu tầm quan trọng của luật pháp quốc tế.

Chính vì vậy, lập trường chống lại các thể chế pháp lý (anti-institutional legal stance) của Trung Quốc đã thúc đẩy các quốc gia láng giềng đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với nhau, đồng thời tìm kiếm sự hỗ trợ lớn hơn từ các cường quốc ngoài khu vực, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản. Tình trạng này đi ngược lại với các mục tiêu đối ngoại mong muốn của Trung Quốc và đang tạo ra những căng thẳng ngày càng trở nên nguy hiểm trong khu vực. Bắc Kinh nên xem xét lại thái độ thù địch của mình đối với sự phán quyết của thể chế khách quan và học cách hưởng lợi từ các thể chế này.

Cuối cùng, chắc chắn rằng một giải pháp hoà bình sẽ phụ thuộc vào ngoại giao, nhưng ngoại giao cũng không nên bỏ qua sự hỗ trợ mà các thể chế pháp lý quốc tế có thể đem lại. Mặc dù không phải là thuốc chữa bách bệnh, nhưng nếu được sử dụng hợp lý, những thể chế này có thể đóng một vai trò rất có ích.

Jerome A. Cohen là giáo sư và là đồng viện trưởng tại Viện Luật pháp Mỹ - Châu Á ở Khoa Luật, Đại học New York. Ông là chuyên gia cao cấp về Châu Á tại Hội đồng Quan hệ Quốc tế. Bài viết là tham luận của ông trình bày tại hội thảo quốc tế “Hoàng Sa, Trường Sa: Sự thật lịch sử” tại Đà Nẵng và được đăng trên trang "The Diplomat"

Tuấn Việt (dịch)

Kim Minh (hiệu đính)