Khi cả Trung Quốc và Ấn Độ cùng trỗi dậy, mối quan hệ hai nước sẽ định hình chính trị thế giới.

 

Cách đây một trăm năm người ta đã có thể nhận ra rằng những cường quốc đang trỗi dậy mà sự cạnh tranh và tác động lẫn nhau của họ sẽ định hình thế kỷ 20. Mặt trời chiếu sáng trên đế chế Anh đã qua chính ngọ. Những lực lượng mới đầy khí lực đã biểu dương sức mạnh trên vũ đài toàn cầu, đáng chú ý là Mỹ, Nhật Bản và Đức. Sự nổi lên của họ đem lại thịnh vượng chưa từng có cũng như sự tàn phá ở mức độ không thể tưởng tượng được từ trước đến nay. 


Hãy suy ngẫm về sự kiện quan trọng gần đây: Trung Quốc chính thức vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Ở phương Tây, điều này gây ra những lo ngại về việc Trung Quốc sẽ sớm qua mặt Mỹ so với những dự tính trước đó. Thế nhưng nhìn rộng ra, áp dụng thêm một chút quan điểm Á Đông, cuộc tranh tài về lâu dài của Trung Quốc là với một gã khổng lồ khác: Ấn Độ. Hai gã khổng lồ châu Á này cho đến tận năm 1800 vẫn chiếm một nửa nền kinh tế thế giới, không như Nhật Bản hay Đức, chỉ đơn thuần là các quốc gia dân tộc. Xét về quy mô và dân số, mỗi nước tương đương với một lục địa, cho dù với những chỉ số tăng trưởng cao, vẫn là một nước nghèo. 


Đây là vùng đất chưa biết đến cần phải được xem xét trong nhiều thập kỷ, chứ không phải trong nhiều năm. Nhân khẩu học không phải là vận mệnh. Những dự báo viễn cảnh kinh tế lâu dài từ các ngân hàng đầu tư cũng vậy. Cách đây hai thập niên, Nhật Bản được xem là đối thủ chính của Mỹ. Những nước lớn và phức tạp như Trung Quốc có thể thất bại hay sụp đổ bởi chính những vấn nạn của nó. Về trước mắt, những mối quan hệ đối ngoại của nó có thể quan trọng hơn, kể cả ở châu Á: ví dụ, có thể có nguy cơ xung đột giữa một Trung Quốc trỗi dậy và một Nhật Bản già cỗi nhưng vẫn hùng mạnh. Các cường quốc phương Tây vẫn có một ảnh hưởng nhất định. 


Do đó vẫn có những bất trắc. Vì thế năm tháng trôi đi, nguy cơ ngày càng lớn là hai gã khổng lồ châu Á sẽ đối mặt với nhau vì tranh chấp biên giới. Việc Trung Quốc và Ấn Độ giải quyết mối quan hệ của họ như thế nào sẽ quyết định liệu những sai lầm tương tự đã gây tổn thương trong thế kỷ 20 có lập lại lần này hay không. 


Chẳng ai lấy làm dễ chịu với vai trò của mình. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn phác họa rằng sự cường điệu của phương Tây về sự trỗi dậy của đất nước của họ là một âm mưu - một cái cớ để trút bỏ những gánh nặng toàn cầu lên Trung Quốc hay để bao vây nước này. Hãy chứng kiến những liên minh của Mỹ với Nhật Bản và Hàn Quốc, nghĩa vụ pháp lý giúp đỡ Đài Loan tự vệ của Mỹ và tình hữu nghị chớm nở giữa Mỹ với những kình địch của Trung Quốc, đáng chú ý là Ấn Độ và nay là với cả Việt Nam. 


Sự hoang tưởng này dường như được cường điệu. Tại sao không ai thắc mắc về một nơi không những đông dân nhất thế giới mà còn là nhà xuất khẩu lớn nhất, thị trường xe hơi lớn nhất, có lượng khí thải carbon lớn nhất và là nơi tiêu thụ năng lượng lớn nhất? Về việc thay đổi cán cân quyền lực, việc nâng cấp đều đặn khả năng công nghệ của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), xây dựng một lực lượng hải quân nước xanh và những kỹ năng phát triển nhanh chóng về không gian và mạng ảo vẫn chưa đe dọa ưu thế của Mỹ bất chấp những cảnh báo gần đây về uẩn khúc trong những kế hoạch của PLA trong bản báo cáo của Lầu Năm góc. Thế nhưng, hẳn là những tiến bộ quân sự của Trung Quốc đã khiến những quốc gia láng giềng và những đối thủ phải mất bình tĩnh. Thời gian vừa qua chứng tỏ việc Trung Quốc bất hòa với Hàn Quốc (cũng như phương Tây) về việc phải xử trí ra sao với việc tàu của hải quân Hàn Quốc bị đánh đắm vào tháng Ba, hiển nhiên bởi một ngư lôi của Bắc Triều Tiên. Và Chính quyền Bắc Kinh hiện đang bất hòa với những nước Đông Nam Á về yêu sách tham lam đối với hầu như tất cả vùng biển Đông. 


Ấn Độ cũng cảm thấy mất bình tĩnh. Sự thất bại bẽ bàng dưới tay Trung Quốc trong một cuộc chiến ngắn ngủi cách đây gần 50 năm vẫn còn dày vò nước này. Một truyền thống hoài nghi chiến lược đối với Trung Quốc hằn sâu trong trí nhớ. Ấn Độ cho rằng Trung Quốc đang hành động để phá hoại họ ở các cấp độ: ngăn chặn họ có được những nguồn cung cấp năng lượng mà cả hai nước đều phải nhập khẩu; dùng mọi thủ đoạn ngăn không cho Ấn Độ có một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; và, quan trọng hơn cả, thông qua những mối quan hệ với các quốc gia láng giềng của họ, đáng kể là Pakixtan. Ấn Độ cũng nhận thấy Trung Quốc, sau hàng thập kỷ gạt những tranh chấp lãnh thổ qua một bên vì những lợi ích trong mối quan hệ rộng lớn hơn, đã trở nên cứng rắn hơn về lập trường trong những tranh chấp ở Tây Tạng và Casơmia mà vào năm 1962 đã dẫn đến chiến tranh. Sự khó chịu này đã đẩy Ấn Độ gần hơn với Mỹ về mặt chiến lược -- đáng chú ý hơn cả là sự hợp tác hạt nhân gây tranh cãi. 


Những nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh coi thường Ấn Độ vì sự lôn xộn và dân chủ không rõ ràng của nước này. Thế nhưng họ phải hiểu rằng Ấn Độ quả là một đối thủ về lâu dài -- đặc biệt nếu nước này tiếp tục ngả về phía Mỹ. Gần đây nhất là vào đầu những năm 1990, Ấn Độ giàu có tương đương với Trung Quốc về thu nhập bình quân. Trung Quốc sau đó nhảy vọt xa tới mức tưởng chừng như Ấn Độ khó mà bắt kịp. Thế nhưng giờ đây những viễn cảnh lâu dài của Ấn Độ dường như mạnh mẽ hơn. Trong khi Trung Quốc sắp phải đối mặt với dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, thì Ấn Độ lại đang có ưu thế về nhân lực vốn đem lại tăng trưởng cho các nơi khác ở châu Á. Không có gì là kỳ lạ nếu tăng trưởng về Ấn Độ có thể vượt Trung Quốc trong một thời gian đáng kể. Ấn Độ có ưu thế của dân chủ -- ít ra là một chiếc van xả áp suất cho sự bất mãn. Và quân đội của Ấn Độ về quân số chỉ đứng sau Trung Quốc và Mỹ: Ấn Độ có 100 nghìn binh sĩ ở vùng tranh chấp Arunachal Pradesh (gấp hai lần quân số Mỹ sắp tới có ở Irắc). Và bởi vì Ấn Độ không đe dọa phương Tây, họ có những người bạn hùng mạnh như một sự đối trọng với Trung Quốc. 


Viễn cảnh của việc tái chiến giữa Ấn Độ và Trung Quốc hiện tại, là điều quấy rối giấc ngủ của những nhà theo chủ nghĩa dân tộc trên báo chí Trung Quốc và những đại tá về hưu trong các tổ chức tư vấn chiến lược của Ấn Độ. Những người lạc quan thích hoan nghênh khoản 60 tỷ về thương mại mà hai bên kỳ vọng trong năm nay (gấp 230 lần so với tổng số vào năm 1990). Thế nhưng thế kỷ 20 cho thế giới thấy rằng những xung đột quyền lợi hiển nhiên thấy trước được có thể ngày càng trở thành những cuộc chiến dự báo trước được với những hậu quả chết người không thể dự đoán. Vì thế dựa vào sự thịnh vượng và dân chủ hơn ở Trung Quốc để giải quyết vấn đề dường như không phải là khôn ngoan. Có hai điều cần phải được thực hiện. 


Thứ nhất, sự xúc tiến chậm chạp về dàn xếp biên giới cần phải phục hồi. Trách nhiệm chính ở đây đặt vào Trung Quốc. Họ có lãnh thổ mà họ muốn và luôn giữ yêu sách về Arunachal Pradesh như một con bài mặc cả. Rốt cuộc, họ đã giải quyết những tranh chấp biên giới khó xử với Nga, Mông Cổ, Mianma và Việt
Nam . Chắc hẳn là nước này chẳng khó khăn mấy để giải quyết với Ấn Độ? 

 

Điều đó dẫn đến có nhu cầu thứ hai cao hơn, điều mà châu Âu phải trải qua hai cuộc thế chiến để tiến gần hơn đến giải pháp: sự thiếu vắng những thể chế quan trọng của một châu Á đang trỗi dậy để thúc đẩy những thỏa hiệp đó. Một diễn đàn khu vực điều hành bởi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) bị xem là vô dụng bởi sự ác cảm của Trung Quốc với ngoại giao đa phương. Cũng như bất kỳ kẻ hay bắt nạt nào khác, họ thích loại bỏ những kẻ phản kháng từng người một. Thật ra, sẽ tốt hơn nếu Trung Quốc và Ấn Độ -- và Nhật Bản -- có thể khởi động lập nên những diễn đàn khu vực để chuyển hướng những sự đối đầu thường thấy thành sự hợp tác cạnh tranh lành mạnh. 


Về mặt toàn cầu, hệ thống dựa trên luật lệ mà phương Tây thiết lập vào nửa cuối thế kỷ 20 đem lại những lợi ích khổng lồ cho các cường quốc đang nổi lên. Thế nhưng nó phản ảnh một trật tự thế giới lỗi thời, không phải sự cân bằng toàn cầu hiện nay, chưa kể đến một trật tự trong tương lai. Trung Quốc và Ấn Độ nên tham gia với vai trò lớn hơn trong việc định hình những quy tắc sẽ chi phối thế kỷ 21. Điều đó đòi hỏi những nhượng bộ từ phương Tây. Nhưng nó cũng đòi hỏi Trung Quốc và Ấn Độ tham gia trật tự thế giới dựa trên luật lệ. Một cố gắng nghiêm túc để giải quyết những bất đồng của họ là một sự khởi đầu tốt. 


Nguồn: The Economist; TTXVN