Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe and Tổng thống Mỹ Donald Trump gặp nhau trong buổi họp mặt song phương bên lề hội nghị G7 tại Biarritz, Pháp vào tháng 8/2015.

 

Năm 1942, khi lính thủy đánh bộ Mỹ tham gia vào trận chiến với quân Nhật Bản mà kết cục cuối cùng chưa rõ ra sao, ông Nicholas J. Spykman, một chiến lược gia người Mỹ gốc Hà Lan, giảng viên tại trường Đại học Yale đã dự đoán về một liên minh sau chiến tranh giữa Mỹ và Nhật Bản đối chọi lại Trung Quốc, một đồng minh quan trọng của Mỹ lúc bấy giờ. Ông Spykman cho rằng Nhật Bản sẽ là đồng minh trung thành và hữu ích. Nhật Bản sẽ cần Mỹ bảo vệ các tuyến đường biển để Nhật Bản có thể nhập dầu lửa và lương thực và người tiêu dùng Nhật Bản sẽ tạo nền tảng cho quan hệ thương mại vững chắc với Mỹ. Còn Trung Quốc cuối cùng sẽ vươn lên từ chiến tranh trở thành một cường quốc lục địa mạnh mẽ và nguy hiểm mà Mỹ sẽ phải đối trọng. Ông Spykman cũng dự báo Nhật Bản sẽ giống như nước Anh - một đồng minh lớn, ngoài khơi của Mỹ.

Ông Spykman chết 1 năm sau đó vì bệnh ung thư và không được chứng kiến những tiên đoán của mình đã thành sự thật. Nhãn quan của ông vừa định vị vừa bình ổn Châu Á, đem lại hòa và thịnh vượng cho khu vực trong gần 3/4 thế kỷ.

Tổng thống Richard Nixon mở ra chương mới với Trung Quốc năm 1972, tạo một vết nhăn cho tầm nhìn trên khi Mỹ xích lại gần với Trung Quốc nhằm đối trọng với Liên Xô. Nhưng liên minh Mỹ - Nhật Bản vẫn đóng vai trò nền tảng cho sự ổn định ở Châu Á. Không có quan hệ đối tác Nhật Bản, cú đảo chiều ngoại giao của Chính quyền Tổng thống Nixon với Bắc Kinh cũng không thể xảy ra. Tầm nhìn của ông Spykman đưa ra vào thời gian đó xem ra rất thích hợp với ngày nay khi mà cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang diễn ra, dù ngày nay ít người còn nhớ đến tên ông. Nhưng giờ đây, trật tự của Châu Á của ông Spykman đang bắt đầu sụp đổ. Bởi vì trong một thập niên qua, Châu Á đã trải qua sự chuyển đổi đáng kể. Sự thay đổi ngày một lớn và quét qua nhiều quốc gia mà ít người nhận ra rằng chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên với đặc điểm có một Trung Quốc quyết đoán hơn nhưng đầy sóng gió ở nội tại, đi liền với một hệ thống liên minh Mỹ rạn nứt và một hải quân Mỹ không còn giữ được sự thống trị như những thập kỷ qua. Cuộc khủng hoảng ở Hồng Công và quan hệ xấu đi giữa Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ là bước mở đầu. An ninh của Châu Á không còn được bao cấp nữa.

Thứ nhất, Trung Quốc không còn là Trung Quốc như người ta từng biết đến. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 2 con số mỗi năm và được lãnh đạo bởi một nhóm những người trơ tráo (faceless), thận trọng và kỹ trị tập thể, bị khống chế bởi nhiệm kỳ, điều hành nền kinh tế tăng trưởng chỉ 6%. Nền kinh tế phát triển chậm lại và chuyển thành một hệ thống trưởng thành hơn với lực lượng lao động tay nghề cao. Tầng lớp trung lưu mới có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và không dễ thỏa mãn, hoạt động của Chính quyền phải đạt tầm tiêu chuẩn cao hơn. Chủ tịch Tập Cận Bình chuẩn bị tầng lớp trung lưu này cho một vị thế cường quốc thế giới với các cảng biển và con đường thương mại trải dài từ Á sang Âu bằng cách kích thích chủ nghĩa dân tộc và theo đuổi cải cách kinh tế.

Trung Quốc triển khai mở rộng nhanh chóng lực lượng hải quân trên các đường biển ở khu vực Châu Á. Điều này sẽ làm thay đổi trật tự an ninh một cực Mỹ trong suốt 75 năm qua ở Châu Á trở thành trật tự đa cực và do đó sẽ kém ổn định hơn. Trật tự hải quân một cực là chìa khóa ngầm của tầm nhìn của ông Spykman về liên minh Mỹ - Nhật Bản. Nhưng sự thay đổi theo hướng đa cực đang diễn ra.

Nhiều nhà quan sát có xu hướng xem sự hung hăng của lực lượng Hải quân Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông như những sự kiện riêng rẽ, cần có báo cáo riêng nhưng thực tế tất cả các hành động đó có tác động lên sự kiểm soát của Mỹ trên toàn bộ vùng Tây Thái Bình Dương. Những dự án gần đây nhất của Trung Quốc ở Darwin phía Bắc Úc và gần Sihanoukville, Campuchia cho thấy Trung Quốc đang lấp đầy các khoảng trống giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc có hệ thống các cảng biển từ một thập kỷ trước. Nhưng chỉ vài năm trở lại đây, đế chế biển Trung Hoa mới nổi lên mạnh mẽ. Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương không còn là cái ao nhà cho hải quân Mỹ. Các hoạt động hải quân của Trung Quốc ngày càng gia tăng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông nhằm phục vụ mục tiêu lớn hơn: Cho phép Trung Quốc đe dọa Đài Loan nhiều hơn. Trước khi Tổng thống Nixon đến thăm Trung Quốc, Đài Loan là tâm điểm. Nếu như Trung Quốc không tham gia cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên năm 1950, Trung Quốc có lẽ đã đánh Đài Loan. Nhưng khi Tổng thống Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger đạt được thỏa thuận với Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai không thừa nhận Đài Loan độc lập, đồng thời không đe dọa Đài Loan, thì Đài Loan chỉ là một điểm căng thẳng nhỏ. Giờ đây, Đài Loan lại trở thành tâm điểm: Bắc Kinh tổ chức các cuộc tập trận ngoài khơi, nâng cao khả năng bắn tên lửa và tiến hành các cuộc tấn công mạng nhắm vào Đài Loan, yêu cầu Mỹ hủy kế hoạch bán vũ khí trị giá 2,2 tỷ USD cho Đài Loan. Tất cả những điều này bắt nguồn một cách tự nhiên và làm trầm trọng thêm bởi những chính sách quyết đoán dân tộc chủ nghĩa của DonaldTrump và Tập Cận Bình.

Bán đảo Triều Tiên là nơi có nhiều diễn biến nhất. Hệ quả không mong đợi của việc Tổng thống Trump tiến hành các cuộc hội đàm với nhà lãnh đạo Kim Jong-un là việc Triều Tiên và Hàn Quốc đã khởi động đàm phán riêng. Đối thoại hai miền có logic riêng và hướng đi riêng, hướng tới một hiệp ước hòa bình Bình Nhưỡng - Seoul và kết cục là 23.000 quân Mỹ phải rời Hàn Quốc. Đừng nói điều này không xảy ra. Các kịch bản trong thế kỷ 20 của các quốc gia bị chia cắt đã hướng tới thống nhất như miền Bắc và miền Nam Việt Nam, Đông và Tây Đức, Bắc và Nam Yemen. Nếu điều này xảy ra trên bán đảo Triều Tiên, người thất bại chính sẽ là Nhật Bản.

Vì an ninh của mình, Nhật Bản cần có một bán đảo Triều Tiên bị chia cắt, bởi vì một Triều Tiên thống nhất sẽ tự nhiên theo bản năng chống lại Nhật Bản do chế độ thuộc địa Nhật Bản áp bán đảo này trong thời gian từ 1910 - 1945, đó là chưa kể đến hậu quả của Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Sự leo thang cẳng thẳng thương mại giữa Hàn Quốc và Nhật Bản cũng bắt nguồn từ chính sách cưỡng bức lao động và nô lệ tình dục, điều mà ngày nào đó sẽ bùng lên giữa một Triều Tiên thống nhất với Nhật Bản. Việc chọn chính sách chủ nghĩa song phương tổng bằng 0 với từng nước Châu Á của Tổng thống Donald Trump đã làm bùng lên một loạt các vấn đề gây chia rẽ giữa các đồng minh của Mỹ và Trung Quốc là người được hưởng lợi. Nhật Bản giờ đây phải chuẩn bị cho một tương lai trong đó các lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc được tăng cường mạnh mẽ, khả năng quân Mỹ ít đi ở khu vực Đông Bắc Á và khả năng trong thập kỷ tới Trung Quốc sẽ đánh bại Nhật Bản trong một cuộc chiến tranh trên Biển Hoa Đông: Trung Quốc hiện đang chờ thời, không sẵn sàng mạo hiểm gây xung đột kéo dài với lực lượng hải quân cực kỳ có năng lực của Nhật Bản. Tất cả những điều này xảy ra trong bối cảnh chính sách ngoại giao và an ninh của Mỹ trở nên ít đáng tin cậy hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến tranh Thế giới II, bởi tính thiếu nhất quán và ổn định trong hoạch định chính sách của Mỹ, hủy hoại uy tín về sức mạnh Mỹ ở Châu Á cũng như những nơi khác trên thế giới.

Với việc quay lưng lại với đồng minh, dấu hiệu đầu tiên khi Tổng thống Trump tuyên bố không tham gia Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP), Tổng thống Trump đã làm suy yếu cơ chế kiểm soát, ngăn chặn leo thang quân sự. Sự tin cậy lẫn nhau và sự hiểu biết ngầm gắn kết Mỹ với các đồng minh ở Châu Á đã bị xói mòn nghiêm trọng. Lòng tin là điều quan trọng nhất một cường quốc hay một cá nhân cần phải có.

Liên minh mới giữa Washington với New Delhi và mối quan hệ chặt chẽ giữa các nước Châu Á đang lên như Ấn Độ, Úc, Nhật Bản và Việt Nam có lẽ không giúp được nhiều như nhiều người nghĩ. Quan hệ Mỹ - Ấn đã cải thiện mạnh mẽ trong vòng 15 năm qua trong một bối cảnh cụ thể: quan hệ Mỹ - Trung, mặc dù là đối thủ, nhưng tiên lượng và quản lý được. Nhưng cuộc chiến thương mại đã làm cho quan hệ hai nước này trở nên khó lường hay kiểm soát được. Trong trường hợp này, Ấn Độ - nước rất gần với Trung Quốc về mặt địa lý - có thể phải xem xét lại chiến lược không liên kết cân bằng giữa hai cường quốc.

Những thay đổi kinh tế, văn hóa trong xã hội Mỹ đã sản sinh ra Tổng thống Donald Trump. Là một nước lớn, tình hình nội bộ Mỹ tác động lớn đối với toàn bộ thế giới. Tình hình nội bộ Trung Quốc cũng như vậy, có tác động lớn đến thế giới. Điều muốn nói là chỉ có Trung Quốc mới đánh bại Trung Quốc. Nếu chính sách đè nén nội bộ của Chủ tịch Tập Cận Bình được hỗ trợ bởi công nghệ không ngăn được tầng lớp trung lưu nổi dậy vào lúc nào đó trong thập kỷ tới thì tất cả những gì Trung Quốc gây dựng ở nước ngoài sẽ bị đặt câu hỏi lớn.

Nhưng kịch bản đó ít xảy ra. Kịch bản dễ xảy ra nhất là Trung Quốc tiếp tục bành trướng sức mạnh quân sự và thị trường nội địa ra khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và Âu - Á trong khi cam kết của Mỹ với các đồng minh sau Chiến tranh Thế giới II tiếp tục thuyên giảm. Ở Châu Á, điều này được hiểu là sự chấp nhận trung lập hóa (Finlandization) - một trào lưu không công khai theo hướng gần gũi với cường quốc. Từ Nhật Bản đến Úc, các đồng minh Châu Á của Mỹ sẽ dần rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc như Phần Lan đã gần hơn với Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Các đồng minh của Mỹ không có lựa chọn nào khác là phải chung sống hòa bình với Trung Quốc, đó là nguyên tắc tổ chức về kinh tế, dân số và địa lý của phía Tây Thái Bình Dương. Và khi đó chúng ta sẽ thấy sự kết thúc của thế giới của ông Spykman.

Robert David Kaplantổng giám đốc điều hành của Tập đoàn Tư vấn và Nghiên cứu rủi ro chính trị - Eurasia Group. Gần đây nhất, ông là tác giả của cuốn sách: “The Return of Marco Polo’s World: War, Strategy, and American Interests in the Twenty-first Century.” Bài viết được đăng trên tạp chí Foreign Policy.

Ngọc Diệp (gt)