__________________

 

Bức tranh quan hệ ASEAN - Trung Quốc gần hai chục năm sau chiến tranh Lạnh nổi bật những mảng sáng với nhiều màu sắc, khá tương phản với quá khứ ảm đạm của hai thập kỷ trước. Chưa bao giờ ASEAN - Trung Quốc có được mối quan hệ gần gũi, hợp tác chặt chẽ và khá toàn diện như hiện nay. Bài viết này tập trung phân tích sự phát triển của quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong thời gian kể từ khi kết thúc chiến tranh Lạnh đến nay trên các mặt chính trị, an ninh và kinh tế, các hạn chế tồn tại và các yếu tố quyết định sự phát triển đó. Trên cơ sở đó, bài viết dự đoán triển vọng quan hệ hai bên trong những năm tới và nêu một số đề xuất về biện pháp chính sách nhằm tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ giữa hai bên.

 

Nhìn lại quan hệ ASEAN - Trung Quốc

Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, hầu hết các nước ASEAN còn e ngại về mối đe dọa Trung Quốc, tìm chỗ dựa an ninh và hợp tác chủ yếu với các nước phương Tây. Do vậy, quan hệ ASEAN - Trung Quốc hầu như chưa có gì đáng kể cho đến tận cuối những năm 1980, ngoại trừ sự hợp tác để hỗ trợ Chính phủ Liên hiệp 3 bên của Cam-pu-chia do Hoàng thân Sihanouk đứng đầu chống lại quân đội Việt Nam ở Cam-pu-chia và Chính phủ Phnôm Pênh được Việt Nam hậu thuẫn.

Chiến tranh Lạnh kết thúc kéo theo sự thay đổi quan trọng không chỉ trong cục diện quan hệ quốc tế trên phạm vi toàn cầu mà ở cả các khu vực. Đông Nam Á vốn là khu vực bị chia rẽ giữa hai chiến tuyến theo ý thức hệ trong gần suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh, từ đầu những năm 1990 bắt đầu quá trình tái tạo cục diện mới cùng với việc kết thúc cuộc chiến ở Cam-pu-chia, bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, Việt-Trung và sự xích lại gần nhau giữa các nước Đông Dương với 6 nước thành viên ASEAN cũ, đặc biệt là từ khi Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia lần lượt trở thành thành viên ASEAN. Cũng kể từ đó, quan hệ ASEAN - Trung Quốc bước sang một chương mới đặc trưng bởi sự phát triển rất nhanh và khá toàn diện của các mối quan hệ hợp tác cả trên phương diện song phương (giữa từng nước thành viên ASEAN với Trung Quốc) lẫn trên phương diện đa phương (giữa khối ASEAN với Trung Quốc trong các khuôn khổ hợp tác ASEAN và ASEAN với các đối tác bên ngoài). Ngày nay, Trung Quốc và ASEAN đã trở thành đối tác đặc biệt quan trọng của nhau.

 

Về chính trị, bên cạnh sự cải thiện và duy trì quan hệ song phương chặt chẽ giữa từng nước ASEAN với Trung Quốc, quan hệ đa phương giữa hai bên cũng đã phát triển rất nhanh và từng bước được nâng cấp. Từ năm 1994, Trung Quốc bắt đầu tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và sau đó họp tham vấn cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần đầu tiên. Từ năm 1996, Trung Quốc trở thành đối tác toàn diện của ASEAN. Tháng 12/1997, các nhà lãnh đạo của ASEAN và Trung Quốc đã có cuộc gặp thượng đỉnh không chính thức đầu tiên và ra «Tuyên bố chung xây dựng quan hệ đối tác láng giềng thân thiện và tin cậy lẫn nhau hướng tới thế kỷ 21» tạo khung và lộ trình cho mối quan hệ toàn diện giữa hai bên. Năm 2003, tại Hội nghị Thượng đỉnh Bali, In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc trở thành đối tác đối thoại đầu tiên của ASEAN tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC). Sau hội nghị, hai bên ra một “Thông cáo chung về đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng”. Sau đó, năm 2004, hai bên thông qua một chương trình hành động để thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược.[1] Những năm qua, mối quan hệ chặt chẽ giữa ASEAN và Trung Quốc không ngừng được củng cố thông qua các hoạt động từ cấp thấp đến cấp cao trong khuôn khổ các cơ chế của ASEAN (ASEAN + 1, ASEAN + 3, PMC) cũng như các cơ chế mà ASEAN giữ vai trò quan trọng như ARF, Đông Á, v.v..

 

Về an ninh quốc phòng, cho đến những năm 1990, giữa một số nước ASEAN và Trung Quốc vẫn còn đụng độ quân sự nhỏ ở biển Đông và trên khu vực biên giới đất liền. Đặc biệt, năm 1995, Trung Quốc đã âm thầm xây dựng công sự trên đảo Vành Khăn, dẫn đến một cuộc không kích của Phi-líp-pin lên đảo này.[2] Giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng liên tục xảy ra va chạm nhỏ ở biên giới đất liền và trên biển. Sau năm 2000, tình hình được cải thiện rõ rệt. Tháng 3/2000, các viên chức cao cấp ASEAN - Trung Quốc lần đầu tiên thảo luận dự thảo về nguyên tắc hành xử ở biển Đông. Tháng 11/2002, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc ở Phnôm Pênh, hai bên đã ký “Tuyên bố về cách hành xử ở biển Đông” (DOC) và từ năm 2004 đã tiến hành các cuộc họp cấp cao để thảo luận tiến trình triển khai.[3] Một văn kiện khác liên quan đến an ninh cũng được ký kết là “Tuyên bố chung về Hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống”. Một số năm gần đây, Trung Quốc thể hiện vai trò tích cực và năng động hơn trong ARF, chủ động thúc đẩy đối thoại an ninh quốc phòng, xây dựng lòng tin, tham gia hợp tác về an ninh phi truyền thống... Đáng chú ý là quan hệ song phương giữa các thành viên ASEAN với Trung Quốc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng được thúc đẩy khá mạnh. Trung Quốc lập tùy viên quân sự ở tất cả các nước ASEAN; duy trì tham vấn thường niên với In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po, Thái Lan và Việt Nam; viện trợ quân sự và cung cấp vũ khí, thiết bị quân sự cho Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Phi-líp-pin và Thái Lan; hợp tác đào tạo và tiến hành diễn tập quân sự với Xinh-ga-po và Thái Lan.[4] Tuy nhiên, quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng cũng có nhiều khó khăn và hạn chế. Lòng tin lẫn nhau tuy được cải thiện hơn, song chưa đạt tới mức cao. Đặc biệt, với việc Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội và lực lượng hải quân, chính thức nêu yêu sách “đường lưỡi bò” đối với biển Đông, tăng cường xây dựng các công trình ở Hoàng Sa và Trường Sa, cứng rắn hơn trong các hoạt động tranh chấp trên biển Đông, trì hoãn triển khai DOC và không mặn mà với đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc pháp lý... làm tăng sự nghi ngại trong nhiều nước ASEAN về tham vọng của Trung Quốc. Điều này là một cản trở quan trọng cho hợp tác hai bên về an ninh quốc phòng cũng như trong một số lĩnh vực khác.[5]

 

Về quan hệ kinh tế, đây là lĩnh vực phát triển vượt bậc trong những năm qua. Hai bên đã đàm phán và ký nhiều văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho quan hệ kinh tế, trong đó đặc biệt là Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc (2002), quy định việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010.[6] Năm 2003, cùng với việc khẳng định sẽ xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, hai bên đã ký một Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc cắt giảm và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với một số nhóm mặt hàng nhập khẩu thuộc Chương trình Thu hoạch sớm (EHP). Tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 11/2004, hai bên đã ký các Hiệp định về Thương mại hàng hóa (TIG) và Cơ chế giải quyết tranh chấp (DSM) trong khuôn khổ Hiệp định khung. Bên lề Hội nghị, hai bên cũng đã ký một biên bản ghi nhớ về hợp tác giao thông với chủ trương thúc đẩy liên kết giao thông theo hướng tổng thể, toàn diện và gắn kết, và tạo nền tảng vững chắc cho ACFTA. Cho đến năm 2005, đã có ba dự án về hợp tác giao thông giữa ASEAN và Trung Quốc được thực hiện.[7] Tại Hội nghị thượng đỉnh tháng 12/2005, hai bên thỏa thuận dành ưu tiên cho 5 lĩnh vực hợp tác nữa là năng lượng, giao thông, văn hóa, sức khỏe cộng đồng và du lịch. Cộng với 5 lĩnh vực từ năm 2001 là nông nghiệp, công nghiệp thông tin, phát triển nhân lực, đầu tư và phát triển lưu vực sông Mê-kông, tổng cộng là 10 lĩnh vực được ưu tiên. Đến năm 2007, có thêm một lĩnh vực nữa là môi trường. Tại Hội nghị Thượng đỉnh tháng 1/2007, hai bên đã ký Hiệp định Thương mại Dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung và một phần đã được đưa vào thực hiện từ tháng 7/2007. Tháng 10/2007, các Bộ trưởng ASEAN và Trung Quốc đã có cuộc họp đầu tiên về kiểm dịch, kiểm tra và giám sát chất lượng với mục đích là tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, thúc đẩy giao thương thực phẩm và bảo vệ quyền của người sử dụng. Đây cũng là một mảng hợp tác để tiến tới ACFTA. Tháng 11/2007, hai bên đã đạt được thỏa thuận về giao thông đường biển và sau đó là một thoả thuận về hợp tác trong lĩnh vực hàng không nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại và du lịch. Ngoài ra, thông qua cơ chế ASEAN+3, hai bên đã đạt được nhiều bước tiến trong hợp tác tài chính, như tạo lập một mạng lưới để giám sát các dòng vốn, nâng cấp hệ thống cảnh báo sớm, từng bước xây dựng thị trường trái phiếu quốc gia và khu vực, nâng cao hiệu quả của công tác tổng kết tình hình kinh tế và đối thoại chính sách.[8] Tháng 3/2009, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc đã đạt được thoả thuận lập Kho dự trữ ngoại tệ khu vực 120 tỷ đô la (Trung Quốc và Nhật mỗi nước sẽ đóng góp 38,4 tỷ, Hàn Quốc 19,2 tỷ, phần còn lại do ASEAN đóng góp) nhằm hỗ trợ các nước trong khu vực đối phó với khó khăn về thiếu tiền mặt. Ngày 15/8/2009, ASEAN và Trung Quốc đã ký Hiệp định về Đầu tư nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư từ các nước thuộc khu vực, và tiến tới thực hiện tự do hóa đầu tư giữa hai bên trong tương lai.

Các thỏa thuận nói trên đã đặt nền tảng pháp lý một cách khá toàn diện để thúc đẩy hợp tác kinh tế nhiều mặt giữa ASEAN và Trung Quốc. Nhờ vậy, các hoạt động giao thương kinh tế cụ thể giữa hai bên đã phát triển rất nhanh trong thời gian qua.

 

Về thương mại, trong những năm 1980, thương mại ASEAN - Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 2 - 3% tổng số thương mại của mỗi bên với thế giới.[9] Đến năm 1995, thương mại với ASEAN chiếm 6,9% tổng ngoại thương của Trung Quốc và đến năm 2006 con số này là 9,1%, với tổng kim ngạch đạt 160,84 tỷ USD.[10] Thương mại hai chiều tăng trung bình trên 20% một năm,[11] đưa hai bên trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba và thứ tư của nhau.[12] Năm 2008, kim ngạch hai bên đạt 231,1 tỷ USD.[13]

 

Về đầu tư, FDI giữa hai bên cũng tăng nhanh trong những năm gần đây. Từ năm 1991-2000, FDI của ASEAN vào Trung Quốc tăng với mức bình quân hàng năm là 28%. Năm 1991, ASEAN mới đầu tư vào Trung Quốc 90 triệu USD, nhưng 10 năm sau (2001) đã đạt con số 26.1 tỷ, chiếm khoảng 7.7% tổng số đầu tư của nước ngoài vào Trung Quốc. Từ năm 2002 đến 2007, FDI từ ASEAN vào Trung Quốc đạt bình quân mỗi năm trên 3 tỷ USD. Như vậy, ASEAN là một nguồn FDI quan trọng của Trung Quốc. Trước năm 2003, FDI từ Trung Quốc vào ASEAN hầu như chưa đáng kể, nhưng từ năm 2003 đến nay, Trung Quốc tăng mạnh đầu tư vào ASEAN, đến cuối năm 2006, tổng số FDI từ Trung Quốc vào ASEAN đạt 11,8 tỷ USD.[14] Tuy vậy, cho đến nay đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN cũng còn ở mức khiêm tốn so với tổng đầu tư của ASEAN vào nước này.

Hợp tác tiểu vùng ASEAN - Trung Quốc những năm gần đây được quan tâm thúc đẩy mạnh, đặc biệt là từ phía Trung Quốc. Trung Quốc tích cực tham gia vào hợp tác tiểu vùng Mê-kông mở rộng (GMS), đầu tư nhiều vào các dự án cơ sở hạ tầng, nhất là ở thượng nguồn sông Mê-kông, chủ động và tích cực thúc đẩy triển khai Hành lang Bắc-Nam và hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng. Tuyên bố dành 15 tỷ USD cho Quỹ ASEAN - Trung Quốc để hỗ trợ các dự án hợp tác kinh tế giữa hai bên, đặc biệt là các dự án phát triển các cơ sở hạ tầng về giao thông và viễn thông kết nối Trung Quốc với các nước ASEAN. Việc tăng cường hợp tác tiểu vùng có ý nghĩa quan trọng kết nối các nước trong khu vực với nhau, khai thác các nguồn lực và khả năng của các vùng miền để phát triển, đặc biệt, hỗ trợ đắc lực việc thực hiện ACFTA.

Như vậy, trong gần hai thập kỷ qua, quan hệ ASEAN - Trung Quốc phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự nghi kỵ và lo ngại lẫn nhau dần dần nhường chỗ cho sự tin cậy lẫn nhau hơn và hai bên trở thành đối tác toàn diện đặc biệt quan trọng của nhau. So với các quan hệ của ASEAN với các nước đối tác bên ngoài khác thì hợp tác ASEAN - Trung Quốc đã phát triển nhanh hơn cả. Sự phát triển như vậy của quan hệ ASEAN - Trung Quốc không những góp phần vào tăng trưởng và phát triển của mỗi nước thành viên ASEAN và Trung Quốc mà còn thúc đẩy xu hướng hợp tác khu vực và đóng góp vào sự phát triển, ổn định chung của cả khu vực, tăng cường vai trò và vị thế quốc tế của cả ASEAN lẫn Trung Quốc.

 

Những hạn chế

Mặc dù đã có sự phát triển khá ngoạn mục trong những năm qua, song quan hệ ASEAN - Trung Quốc hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai bên và còn những hạn chế đáng kể.

 

Một là, như đã đề cập ở trên, ASEAN và Trung Quốc chưa đạt được mức độ tin cậy lẫn nhau cao để có thể hoàn toàn trao gửi cho nhau. Thể hiện rõ nét nhất là tranh chấp biên giới và biển đảo giữa Trung Quốc với một số nước ASEAN vẫn tồn tại và gần đây có phần căng thẳng hơn, đặc biệt với việc Trung Quốc chính thức công bố yêu sách “đường lưỡi bò” và tăng cường các hoạt động tại biển Đông, hiện đại hóa quân đội và lực lượng hải quân. Điều này có phần làm sống lại ám ảnh của “mối đe dọa Trung Quốc” đối với các nước ASEAN.[15] Ngoài ra, các biện pháp và cách thức triển khai quan hệ của Trung Quốc với ASEAN nói chung và từng nước ASEAN nói riêng khiến một số người nghi ngờ Trung Quốc đang tìm cách làm mất đi sự cân bằng trong cán cân quyền lực ở khu vực Đông Nam Á và làm yếu đi sự thống nhất của ASEAN.

 

Hai là, nền kinh tế của các nước ASEAN và Trung Quốc đều hướng vào xuất khẩu và các đối tác lớn là Mỹ, các nước châu Âu và Đông Bắc Á. Do vậy, trong quan hệ kinh tế quốc tế, ASEAN và Trung Quốc lại cạnh tranh nhau nhiều hơn là bổ sung cho nhau. Hơn nữa, hiện thời, Trung Quốc cũng chưa có khả năng đáp ứng nhiều đối với nhu cầu về thu hút FDI và công nghệ cao của các nước ASEAN. Những đặc điểm này góp phần hạn chế đáng kể việc phát huy tiềm năng trao đổi kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc. Việc  hoàn  thành xây dựng ACFTA sẽ góp phần tăng cường hơn nữa quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc, song để loại bỏ  hoàn  toàn các hạn chế gắn với đặc điểm của từng nền kinh tế ASEAN và Trung Quốc như đã nêu trên đòi hỏi thời gian dài thông qua việc cơ cấu lại từng nền kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.

 

Ba là, sự khác biệt trên nhiều phương diện giữa các thành viên ASEAN khiến cho ASEAN nhiều khi không dễ dàng có tiếng nói chung trong quan hệ với Trung Quốc, gặp không ít khó khăn và chậm chạp trong việc đề ra và triển khai các chương trình hợp tác với Trung Quốc.

 

Bốn là, sự cạnh tranh ảnh hưởng và vai trò của các cường quốc tại khu vực Đông Nam Á có tác động quan trọng đến quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Một mặt, để tránh bị bất lợi nếu để ASEAN bị quá nhiều ảnh hưởng của các cường quốc khác, Trung Quốc phải thúc đẩy quan hệ chặt chẽ với ASEAN. Mặt khác, các cường quốc khác, nhất là Mỹ, Nhật, EU… cũng không muốn để Trung Quốc chi phối ASEAN, nên tìm cách gia tăng và củng cố quyền lợi và ảnh hưởng của mình ở khu vực Đông Nam Á thông qua thúc đẩy quan hệ toàn diện với ASEAN. Chính quyền của Tổng thống Obama gần đây đã khẳng định quyết tâm thực hiện chính sách trở lại Đông Nam Á. Nhật, EU, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc đã và đang tích cực triển khai chính sách tăng cường quan hệ với ASEAN, đàm phán và ký các thoả thuận mậu dịch tự do với cả khối hoặc từng nước ASEAN. Kể cả Nga gần đây cũng có những bước đi tích cực trong phát triển quan hệ với ASEAN. Như vậy, các nước ASEAN sẽ phải tính toán, điều chỉnh và tìm cách cân bằng quan hệ với các cường quốc, nên cũng không thể đi quá xa với Trung Quốc. Thực tế lâu nay cho thấy, phần lớn các nước ASEAN vẫn trông chờ nhiều hơn vào Mỹ và các nước phương Tây khác trong việc duy trì an ninh và ổn định cũng như trong các lĩnh vực hợp tác khác. Trung Quốc khó có thể thay thế được vai trò của Mỹ tại khu vực.

 

Điều gì giải thích sự phát triển quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong gần hai thập kỷ qua ?

Có nhiều yếu tố lý giải nguyên nhân của sự phát triển nhanh chóng các mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong những năm qua, trong đó đáng lưu ý nhất là những yếu tố sau :

 

Thứ nhất, cả ASEAN và Trung Quốc đều cần nhau vì nhu cầu an ninh cho bản thân mình và duy trì hòa bình ổn định trong khu vực để tạo thuận lợi cho phát triển, mở rộng thị trường quốc tế cho thương mại và đầu tư.

Về phía ASEAN, duy trì hòa bình, ổn định và tăng cường hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế là chính sách cơ bản của Hiệp hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển thịnh vượng của mỗi nước thành viên và củng cố vai trò của ASEAN. Thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), xây dựng Cộng đồng ASEAN và triển khai các quan hệ đối tác toàn diện với các nước ngoài khu vực, nhất là các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, EU, Ấn Độ… vừa là mục tiêu vừa là biện pháp quan trọng để ASEAN phát triển trong điều kiện toàn cầu hóa. ASEAN ý thức rõ vai trò và vị trí của Trung Quốc ở khu vực - một quốc gia có thị trường khổng lồ 1,3 tỷ người và nền kinh tế tăng trưởng rất nhanh - cũng như tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ nhiều mặt với Trung Quốc, nên từ khi kết thúc chiến tranh Lạnh, Hiệp hội nói chung và từng nước thành viên nói riêng đều tìm cách tăng cường quan hệ với Trung Quốc, coi đây là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình. 

Về phía Trung Quốc, để thực hiện thành công chiến lược “trỗi dậy hòa bình”, Trung Quốc tích cực triển khai các chính sách và biện pháp tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước, trong đó có các nước trong khu vực, đặc biệt là ASEAN. Khu vực Đông Nam Á đối với Trung Quốc có vị trí đặc biệt quan trọng trên các phương diện chính trị, chiến lược và kinh tế. Duy trì được quan hệ mật thiết và hợp tác toàn diện với ASEAN, Trung Quốc sẽ phát huy được ảnh hưởng và vai trò của mình trong khu vực, đồng thời hạn chế được ảnh hưởng của các cường quốc khác ở đây, phá được thế bị bao vây, kiềm tỏa về chiến lược của Mỹ và phương Tây. Nhờ vậy, Trung Quốc có điều kiện bảo đảm môi trường an ninh ổn định để phát triển, mở rộng được thị trường sang một khu vực hết sức quan trọng cho sự phát triển hòa bình của Trung Quốc. Thêm nữa, hợp tác với ASEAN cũng là thử nghiệm đầu tiên của Trung Quốc trong chiến lược hội nhập khu vực, từ đó tạo cơ sở để Trung Quốc mở rộng tiến trình hội nhập khu vực của mình.

 

Thứ hai, môi trường quốc tế cũng như điều kiện của ASEAN và Trung Quốc có nhiều thuận lợi để hai bên tăng cường quan hệ với nhau.

-Về môi trường quốc tế: Thuận lợi lớn là từ sau chiến tranh Lạnh, xu thế hòa bình và hợp tác trên thế giới trở thành một xu thế chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế. Hầu hết các nước đều cố gắng tránh đối đầu và tìm kiếm hợp tác với nhau. Nếu như trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, Trung Quốc là một bên tham gia vào sự đối đầu giữa hai hệ thống và quan hệ giữa Trung Quốc với hầu hết các cường quốc khác cũng như với phần lớn các nước Đông Nam Á là mang tính thù địch, thì từ khi chiến tranh Lạnh kết thúc, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước này được cải thiện, chuyển dần từ đối đầu sang đối tác. Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng phát triển mạnh mẽ kéo theo sự tham gia của hầu hết các nước. Đặc biệt, ở Đông Á, hòa bình và ổn định cơ bản được tái lập và duy trì sau khi cuộc xung đột Cam-pu-chia được giải quyết bằng chính trị vào đầu thập kỷ 1990. ASEAN dần mở rộng bao gồm cả Việt Nam, Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia. Tiến trình liên kết ASEAN được tăng cường thông qua hàng loạt chương trình lớn (AFTA, AIA, Cộng đồng ASEAN…). ASEAN ngày một lớn mạnh, có vị thế và vai trò quốc tế quan trọng, khiến các cường quốc vị nể và tìm cách tranh thủ, tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác.

-Về điều kiện trong nước : Kinh tế các nước ASEAN và Trung Quốc đều tăng trưởng nhanh và phụ thuộc nhiều vào thương mại và đầu tư quốc tế. Trong suốt ba thập kỷ, nhờ cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã bảo đảm được ổn định, đạt tốc độ tăng trưởng cao. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới với kho dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới (trên 2000 tỷ USD năm 2008)[16] nhờ xuất siêu. Nền kinh tế các nước ASEAN cũng duy trì được mức tăng trưởng khá trước khủng hoảng năm 1997 và sau đó phục hồi, tiếp tục tăng trưởng tương đối tốt trong thập kỷ 2000. Cả Trung Quốc và ASEAN đều cần mở rộng thị trường quốc tế của mình để bảo đảm duy trì tăng trưởng cho nền kinh tế chủ yếu dựa vào xuất khẩu và thu hút FDI, nhất là trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang ngày càng nổi lên mạnh mẽ và sự đe dọa thu hẹp các thị trường truyền thống chủ chốt của Trung Quốc và ASEAN tại Bắc Mỹ và EU do hệ quả của xu hướng bảo hộ mới đang dâng lên ở đây.

 

Thứ ba, mặc dù mỗi bên theo đuổi những mục tiêu khác nhau, nhưng cả ASEAN và Trung Quốc đều thống nhất nhận thức chung về sự cần thiết tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai bên và đều đã chủ động, tích cực triển khai các chính sách và biện pháp tranh thủ lẫn nhau, đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực cả trên phương diện song phương lẫn đa phương.

 

Triển vọng quan hệ ASEAN - Trung Quốc

Triển vọng của quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong tương lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là các yếu tố như môi trường quốc tế và khu vực, điều kiện bên trong của ASEAN và Trung Quốc, chính sách của mỗi bên.

Như đã phân tích ở trên, trong tầm ngắn hạn và trung hạn, có thể thấy rằng cả ASEAN và Trung Quốc đều cần tiếp tục duy trì an ninh, ổn định ở khu vực và hợp tác để phát triển. Các cường quốc liên quan đến Đông Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng cũng có lợi ích trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực này. Hiện nay và trong những năm tới, có hai vấn đề lớn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh và ổn định của khu vực. Thứ nhất là vấn đề tranh chấp về biển đảo, trong đó trực tiếp ảnh hưởng nhất đến quan hệ ASEAN - Trung Quốc là tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước khu vực liên quan đến biển Đông. Thứ hai là vấn đề tăng cường vũ trang của các nước trong khu vực trong bối cảnh gia tăng căng thẳng trong tranh chấp biển đảo trên biển Đông. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay, ít có khả năng nổ ra xung đột lớn phá vỡ hòa bình và ổn định trong khu vực, ít nhất là trong trung hạn. Các nước liên quan sẽ cố gắng kiềm chế, tránh xung đột và tìm giải pháp thích hợp để duy trì quan hệ hợp tác. Các cường quốc liên quan đến khu vực về cơ bản sẽ ủng hộ các nước tranh chấp tìm giải pháp hòa bình và duy trì hợp tác.

Một yếu tố khác có thể gây ảnh hưởng không thuận cho việc tăng cường quan hệ và hợp tác chặt chẽ ASEAN - Trung Quốc là sự gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng của các cường quốc bên ngoài khu vực Đông Nam Á. Điều này nổi lên ngày càng rõ trong một số năm gần đây. Ngoài Mỹ đang triển khai chính sách “trở lại” từ khi Tổng thống Obama lên nắm quyền,[17] Nhật Bản, EU, Ấn Độ, Nga, Hàn Quốc, Úc[18] rất tích cực tăng cường quan hệ nhiều mặt với ASEAN thông qua các chương trình hợp tác và liên kết kinh tế. Đây có thể được xem như là các đối trọng của quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Mặc dù có thể tạo ra những lực cản nhất định cho việc thúc đẩy sâu hơn quan hệ ASEAN - Trung Quốc và làm phức tạp hơn các mối quan hệ trong khu vực, song về cơ bản các cặp quan hệ của ASEAN với các cường quốc bên ngoài ít có khả năng đảo ngược hoặc làm xấu đi nghiêm trọng quan hệ ASEAN - Trung Quốc. ASEAN sẽ cố gắng tìm cách giữ cân bằng các mối quan hệ của mình với tất cả các cường quốc, dù rằng không dễ dàng.

Bối cảnh của ASEAN và Trung Quốc trong những năm tới cũng sẽ cơ bản thuận lợi cho khả năng tăng cường quan hệ hợp tác hai bên. Cả Trung Quốc và hầu hết các nước ASEAN đều sẽ tiếp tục duy trì được ổn định chính trị, bất chấp một số khó khăn nội tại đang vấp phải, và tăng trưởng kinh tế khả quan hơn sau suy thoái toàn cầu.

Cả ASEAN và Trung Quốc ngày càng cần đến thị trường của nhau hơn, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa tiếp tục gia tăng và mỗi nước đều tích cực mở cửa hội nhập vào xu thế này. Các chính phủ hai bên đều tỏ rõ quyết tâm tăng cường quan hệ đối tác toàn diện với nhau. Đặc biệt, với việc đẩy mạnh xây dựng Cộng đồng ASEAN, thực hiện khu vực Mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc cũng như các hiệp định về dịch vụ, đầu tư và các thỏa thuận trong nhiều lĩnh vực khác, quan hệ ASEAN - Trung Quốc sẽ tiếp tục đà phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, làm cho hai bên sẽ gắn bó với nhau nhiều hơn và điều này sẽ có nhiều tác động tới khu vực Đông Nam Á.

 

Một số khuyến nghị về tăng cường quan hệ ASEAN - Trung Quốc

Tăng cường quan hệ toàn diện ASEAN - Trung Quốc nhìn chung có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và đóng góp cho sự phát triển của các nước trong khu vực. Hai bên cần tiếp tục củng cố và thúc đẩy, làm sâu sắc hơn mối quan hệ này. Dưới đây, tác giả  bài viết xin nêu một số đề xuất về phương hướng và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu này:

 

Thứ nhất, ASEAN và Trung Quốc cần tăng cường hơn nữa lòng tin đối với nhau thông qua các biện pháp song phương và đa phương. Về song phương, việc tăng cường hợp tác trên mọi lĩnh vực và giao lưu ở mọi cấp từ lãnh đạo cấp cao đến cấp thực hiện chính sách, giới nghiên cứu và nhân dân giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN là rất quan trọng. Về đa phương, Trung Quốc và ASEAN cần tham gia tích cực hơn vào các cơ chế đối thoại an ninh khu vực, đẩy nhanh và thực chất hơn tiến trình ARF vào giai đoạn ngoại giao phòng ngừa, xem xét tích cực khả năng thiết lập một cơ chế an ninh khu vực cho cả Đông Á (sáng kiến xây dựng Cộng đồng Đông Á), sớm đàm phán và ký kết một bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).

 

Thứ hai, các bên tranh chấp liên quan đến biển Đông cần hết sức kiềm chế, tránh xung đột, giữ nguyên trạng tình hình và sớm đi vào đàm phán đa phương giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp và việc khai thác, quản lý các nguồn lợi cũng như các vấn đề liên quan khác tại các khu vực tranh chấp.

 

Thứ ba, hai bên thực hiện xây dựng ACFTA và thỏa thuận hợp tác ASEAN - Trung Quốc trong các lĩnh vực một cách thực chất. Trong bối cảnh suy thoái toàn cầu, hai bên cần đẩy mạnh mở cửa cho nhau hơn để khai thác thị trường nội khối. ASEAN nên ủng hộ và tích cực cùng Trung Quốc triển khai các chương trình/dự án hợp tác tiểu vùng hiện nay (GMS, Hành lang Nam Ninh - Xinh-ga-po, Vịnh Bắc Bộ mở rộng), tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư. Trung Quốc nên thể hiện tích cực hơn nữa, thậm chí cần đóng vai trò đầu tàu và là nhà tài trợ chính trong các dự án hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc cả trên phương diện khu vực lẫn tiểu vùng.

Thứ tư, hợp tác giữa hai bên trong các lĩnh vực chuyên ngành cũng cần được mở rộng và tăng cường cả về chiều sâu. Đặc biệt, cần đẩy mạnh hơn hợp tác về công nghệ, giáo dục - đào tạo và du lịch với các chương trình và biện pháp hữu hiệu.

 

TS. Phạm Quốc Trụ, Học viện Ngoại giao

Bài đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 79 (12-2009)



[1] Xem trang về quan hệ ASEAN- Trung Quốc tại http://www.aseansec.org/4979.htm, truy cập 26/08/2008.

[2] Ngô Thế Vinh, “Đá Vành Khăn: Đối đầu giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa”, 2007, http://talawas.org/talaDB/showFile.php?res=117568&rb=0401, truy cập 26/08/2008.

[3] Xem The Report of the ASEAN - China Eminent Persons Group, tr. 17-18.

4 Xem Ian Storey, “Quan hệ an ninh quốc phòng ASEAN-Trung Quốc: những cải thiện và rào cản”, Tham luận tại Hội thảo Hợp tác khu vực và tiểu vùng ASEAN-Trung Quốc, do Trường Nghiên cứu Quốc tế Đại học NanYang tổ chức tại Xinh-ga-po 1-2/10/2009.

[5] Như trên.

[6] Các nước ASEAN 6 và Trung Quốc hoàn tất thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan theo Hiệp định vào 2010, tuy nhiên, ASEAN 4 (Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam) sẽ hoàn tất các nghĩa vụ này vào 2015.

[7] Xem The Report of the ASEAN- China Eminent Persons Group, tr. 19.

[8] Như trên

[9]John Wong và Lye Liang Fook, “ASEAN perspective on China: Trade and impacts”, bài viết cho hội thảo quốc tế “Phát triển của quan hệ thương mại ASEAN - Trung Quốc 15 năm qua  và triển vọng”, Hà Nội, 2007, tr. 2.

[10] Nguồn: “China Ministry of Commerce”, http://mofcom.gov.cn, truy cập ngày 28/08/2008.

[11]China, ASEAN summit promote trade, trust”, China Daily, 29/10/2006, truy cập tại http://www.chinadaily.com.cn/china/2006-10/29content_719317.htm, ngày 28/08/2008.

[12] Như trên.

[13] Feasibility Study Report on Pan-Beibu Gulf Economic Cooperation cua Joint Expert Group, June 2009.

[14] Zhao Jianglin, phát biểu tại hội thảo quốc tế “Phát triển của quan hệ thương mại  ASEAN - Trung Quốc 15 năm qua và triển vọng”, Hà Nội , 2007. 

[15] Ian Storey, tham luận tại Hội thảo quốc tế “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực”, Hà nội, 26-28/11/2009.

[16] Carlyle A. Thayer, “Những diễn biến gần đây ở biển Đông: Hệ lụy đối với hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực”, tham luận tại hội thảo quốc tế “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực”, Hà Nội, 26 -28/11/2009.

[17] Tuy là đối tác đối thoại của ASEAN từ lâu, song dưới thời Tổng thống George W. Bush, Mỹ không chú trọng nhiều đến hợp tác với ASEAN. Chính quyền dân chủ của Tổng thống B. Obama tỏ quan tâm hơn và khẳng định chính sách cam kết trở lại đối với Đông Nam Á.

[18] Nhật Bản, Ấn Độ và Ốt-xtrây-li-a đều đã ký Hiệp định đối tác và mậu dịch tự do với ASEAN. Hàn Quốc cũng đàm phán với ASEAN một hiệp định tương tự. EU cũng đã đàm phán FTA song phương với một số nước ASEAN và đang xem xét việc đàm phán tiếp FTA với một số nước thành viên ASEAN khác, trong đó có Việt Nam.