09/04/2011
(Phần I) Bảo về chủ quyền, duy trì phát triển kinh tế, duy trì vũ khí hạt nhân chiến lược và đảm bảo uy tín quốc tế như là một cường quốc và một đối tác bình đẳng với Mỹ là 4 mục tiêu cơ bản của Quân Giải phóng Nhân Dân Trung Quốc và Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, trong đó, nhấn mạnh đến vai trò của hải quân trong việc thực hiện những mục tiêu này
Những quan điểm an ninh quân sự
Mục tiêu chính sách đối ngoại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và vai trò của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Để tìm hiểu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, cần phải hiểu được mục tiêu đối ngoại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Theo quan điểm của tôi, có bốn mục tiêu cơ bản sau:
1. Bảo vệ chủ quyền quốc gia
2. Duy trì sự phát triển kinh tế
3. Duy trì vũ khí hạt nhân chiến lược
4. Đảm bảo uy tín trong cộng đồng quốc tế như là một cường quốc và một đối tác bình đẳng với Mỹ
Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được những mục tiêu đối ngoại này. Dưới đây, tôi sẽ giải thích những nhiệm vụ sẽ được triển khai gắn với từng mục tiêu.
1. Bảo vệ chủ quyền quốc gia
Theo lập luận của tôi, có ba nhiệm vụ chính đối với Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc liên quan đến chủ quyền quốc gia. Đầu tiên là chuẩn bị cho việc thu hồi Đài Loan bằng biện pháp quân sự. Nói cách khác, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rất thực dụng trong việc triển khai chính sách đối ngoại của mình – ngăn chặn sự độc lập hay việc chia cắt Đài Loan khỏi Trung Quốc đơn giản chỉ là biện pháp thực tế nhất nhằm duy trì chủ quyền quốc gia.
Thứ hai là bảo vệ những vùng biển gần bờ của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm cả lãnh hải, khỏi ngoại xâm. Hàm ý rộng hơn của nhiệm vụ này là nhằm giúp Trung Quốc sử dụng địa vị của một quốc gia ven biển để đòi quyền lớn hơn trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Những quyền mà Trung Quốc cố gắng giành được ở đây không chỉ về mặt kinh tế, mà họ còn nỗ lực hạn chế những hành động phi kinh tế của những nước khác tại Vùng đặc quyền kinh tế của họ. Việc này được coi là sự diễn dịch sai lệch luật quốc tế hiện nay được tuyên bố rõ ràng trong Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Có khả năng dựa trên lập trường này mà Trung Quốc tuyên bố những vùng biển quốc tế xung quanh như Biển Đông như các vùng thuộc lợi ích cốt lõi của mình. Trung Quốc có thể không do dự sử dụng vũ lực để đạt được những quyền này – vụ đụng độ với tàu của Mỹ USS Impeccable (TAGOS-23) vào tháng 3/2009 là một minh chứng.
Thứ ba là giải quyết những tranh chấp lãnh thổ khác nhau với các nước láng giềng, chủ yếu liên quan đến những đảo tranh chấp tại Biển Đông và biển Hoa Đông. Tôi sẽ đề cập đến những tranh chấp này cụ thể hơn trong phần cuối của bài viết này. Chỉ cần đề cập đến ở đây rằng những nguồn lợi thực tế mà Trung Quốc thu được từ các đảo tranh chấp này liên quan trực tiếp đến các quyền của họ tại Vùng đặc quyền kinh tế. Trung Quốc có quan điểm cứng rắn về vấn đề này trong suốt hai thập kỷ qua, và rõ ràng rằng không có bất kỳ cách giải quyết nào trong ngắn hạn bằng biện pháp quân sự. Những giải pháp toàn diện hơn cần có sự kết hợp của chính sách quân sự, kinh tế và ngoại giao trong nội bộ chính phủ Trung Quốc. Thậm chí như vậy, tôi đoán rằng Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn duy trì vai trò chủ đạo trong tương lai, bởi cho đến nay họ vẫn giữ vai trò chính.
Hiện nay, Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc không đủ khả năng hoàn thành ba nhiệm vụ nêu trên. Kế hoạch Đài Loan của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cho thấy rằng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Lực lượng Không quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Pháo binh và Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ thực hiện những cuộc đổ bộ để chiếm Đài Loan. Nắm quyền kiểm soát tại eo biển Đài Loan và những vùng biển xung quanh là tiền đề cho cuộc tác chiến quân sự này. Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ cần những lực lượng hải quân có kích cỡ hợp lý phục vụ cho mục tiêu này. Họ sẽ cần những phương tiện phục vụ cuộc đổ bộ như tàu đổ bộ cỡ lớn có sân bay và bến tàu, cũng như những tàu đổ bộ nệm hơi. Bên cạnh đó, họ sẽ cần những lực lượng hải quân truyền thống nhằm kiểm soát hàng hải, như tàu khu trục, chiến hạm, và máy bay ném bom hải quân có vũ khí Tên lửa chống tàu ngầm (ASM).
Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng, trong trường hợp không chọn cách phong toả Đài Loan, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ phải giành một số đảo cực Tây của quần đảo Sakishima nhằm mở đường cho cuộc tác chiến chính hướng đến Đài Loan. Theo đó, Nhật Bản có thể cũng trở thành một bên giao chiến. Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ tăng cường khả năng tấn công và đổ bộ của mình nhằm vô hiệu hóa sức mạnh phòng thủ Lực lượng Phòng Vệ Nhật Bản, vì Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản sẽ được triển khai tại những đảo này và ở những vùng biển liền kề. Khả năng tình hình mới này chắc chắn sẽ tạo ra những quan ngại an ninh nghiêm trọng cho Nhật Bản, và đòi hỏi phải có những giải pháp ứng phó phù hợp từ giới lãnh đạo quân sự và chính trị Nhật.
Ngoài chiến lược Đài Loan nói riêng, cần lưu ý rằng Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc gần đây đã nâng cấp vũ khí để hỗ trợ triển khai các loại hình tác chiến khác nhau. Cụ thể, PLA đã trang bị một loại tàu lên lửa ASM mới, cũng như tàu ngầm chạy bằng điện và dầu diesel truyền thống. Nhìn chung, khó có thể đưa những phương tiện này vào hoạt động bởi mục đích sử dụng hạn chế của nó, mà sẽ ảnh hưởng đến các khả năng vận hành cân bằng khác như phòng vệ, chỉ huy và kiểm soát. Tuy nhiên, nếu được sử dụng một cách thích hợp, chúng có thể tăng cường đáng kể năng lực hải quân của Trung Quốc.
Một trong những chiến lược ngầm của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc nhằm duy trì chủ quyền quốc gia là Chống tiếp cận và Phong tỏa khu vực (AAAD). Chiến lược này hiện đang thu hút sự chú ý của những lực lượng hải quân khắp thế giới, và khiến Hải quân Mỹ e ngại. Cùng với Lực lượng pháo binh thứ hai, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc kỳ vọng Chiến lược Chống tiếp cận và Phong tỏa khu vực này sẽ là con át chủ bài để ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ vào cuộc khủng hoảng. Nó cũng có thể kiềm chế việc triển khai quân trong thời bình của những lực lượng Hải quân Mỹ tại biển Đông và biển Hoa Đông.
2. Duy trì tăng trưởng kinh tế
Hải quân Quân đội Nhân dân Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng kinh tế. Trong thời đại mà sự phụ thuộc lẫn nhau trên toàn cầu ngày càng tăng, nhiệm vụ tối quan trọng đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là bảo đảm sự lưu thông ổn định những nguyên liệu thô và hàng hóa giữa Trung Hoa đại lục và các quốc gia khác. Giao thông hàng hải có vai trò chính trong các chu chuyển này.
Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa đóng hai vai trò quan trọng trong vấn đề này. Nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo Trung Quốc được tự do triển khai những hoạt động hàng hải ở ngoài biển cả trên phạm vi toàn cầu. Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh cho những hoạt động hàng hải bên ngoài những Vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, đặc biệt tại những vùng biển ngoài khơi của Trung Hoa Đại lục. Vì biển cả để ngỏ cho tất cả quốc gia và tổ chức được phép sử dụng, nên Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa cần có khả năng quân sự vượt trội so với những quốc gia cạnh tranh khác khi hoạt động ở đó. Bên cạnh đó, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn được giao nhiệm vụ bảo đảm cho Trung Quốc giữ được những độc quyền đối với các hoạt động kinh tế trong Vùng đặc quyền kinh tế của mình. Đây là một trong những lý do vì sao trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những bước tiến dài trong việc yêu sách những Vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn hơn. Để Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc hiện thực hóa khả năng này, họ phải có một hạm đội vừa có thể ngăn chặn và vừa có thể đẩy lùi bất kỳ lực lượng hải quân nào ở trong và xung quanh Vùng đặc quyền kinh tế của mình. Vì các tàu sân bay sẽ nâng cao đáng kể năng lực quân sự trong lĩnh vực này, nên có thể Hải quân PLA sẽ sớm trang bị chúng.
Nhiệm vụ thứ hai của Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc liên quan đến vấn đề kinh tế là duy trì an ninh của các tuyến đường giao thông thương mại biển quốc tế (SLOCs) tại khu vực Đông Á và xa hơn nữa. Tương tự như Mỹ, Trung Quốc là một cường quốc kinh tế cần có khả năng cạnh tranh những nguồn tài nguyên chiến lược với các quốc gia khác. Vì vậy, Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc phải xây dựng sức mạnh biển khơi tại những vùng biển xa bờ. Điều mỉa mai là hành động này có thể khiến Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc một ngày nào đó phải đối mặt với những thách thức Chống tiếp cận và Phong tỏa khu vực (AAAD) tại những khu vực xa xôi; những thách thức mà rất có thể tương tự với chiến lược AAAD mà Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc hiện sử dụng để chống lại Hải quân Mỹ tại Đông Á.
Việc bảo vệ các tuyến đường giao thông biển quốc tế (SLOCS) là một nhiệm vụ khó khăn đối với bất kỳ lực lượng hải quân nào, và Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc cũng không phải là một ngoại lệ. Vấn đề then chốt là Hải quân Quân giải phóng Nhân Dân Trung Quốc sẽ triển khai chiến lược nào để làm tròn nhiệm vụ đó. Họ có thể theo đuổi nhiệm vụ này một cách đơn phương hoặc đa phương. Một liên minh với với các quốc gia cùng chia sẻ những lợi ích quốc gia chung có thể là một khả năng trong tương lai, thậm chí nếu điều này đi ngược lại chính sách không liên kết truyền thống của Trung Quốc. Trong bất kỳ trường hợp nào, rõ ràng rằng bất kỳ một biện pháp đơn lẻ nào sẽ là không đủ để hiện thực hóa việc bảo vệ các tuyến đường giao thông biển quốc tế trên quy mô lớn.
Bên cạnh gót chân Asin tiềm ẩn này, điều gây nghi ngờ là liệu chiến lược “Chuỗi ngọc trai” có mang lại bất kỳ tác động quan trọng nào hay không. Để hoạt động ở những vùng biển khơi, việc bố trí các căn cứ thực hiện chức năng hỗ trợ và đáng tin cậy ở khắp các khu vực hoạt động chính là một vấn đề sống còn. Hiện nay, chỉ có Hải quân Mỹ làm được điều này. Nhưng Mỹ sẽ không còn duy trì được khả năng này nếu không có những căn cứ do những đồng minh thân cận cung cấp như NATO và Nhật Bản. Để Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc thực hiện những nhiệm vụ khác nhau tại những vùng biển khơi, họ cũng cần những đồng minh tương tự. Nhưng với vị thế là một lực lượng hải quân không liên kết, Hải quân Trung Quốc thiếu một sự hỗ trợ như thế trên bình diện toàn cầu.
3.Duy trì vũ khí hạt nhân chiến lược
Nhằm đạt được mục tiêu này, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc có ba nhiệm vụ trọng tâm: đầu tiên, duy trì sức mạnh hạt nhân đáng kể thông qua lực lượng tàu ngầm hạt nhân (SSBN); thứ hai, bảo vệ lực lượng này khỏi những vũ khí chống tàu ngầm (ASW) của các đối thủ tiềm tàng; và thứ ba, theo dõi và ngăn chặn lực lượng tàu ngầm hạt nhân của Hải quân Mỹ. Đối với Trung Quốc, cả tên lửa đạn đạo xuyên lục địa đối đất (ICBM) và tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm (SLBM) tạo thành Bộ đôi Hạt nhân Chiến lược trong chiến lược hạt nhân của mình. Khác với Mỹ và Nga, Trung Quốc không có hạm đội máy bay đánh bom chiến lược tầm xa cho khả năng thực hiện ba mục tiêu trên của mình (TRIAD). Dù máy bay ném bom tầm trung của Trung Quốc có thể đáp ứng khả năng ba mục tiêu của họ chống lại Ấn Độ, Bộ đôi hạt nhân chiến lược hiện nay có thể sẽ vẫn giữ vị trí trung tâm trong chính sách của Trung Quốc trong tương lai.
Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc được cho là sẽ đóng vai trò cốt yếu trong quy mô Bộ đôi. Nhằm duy trì sức mạnh hạt nhân chiến lược vững mạnh trên biển, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cần có lực lượng tàu ngầm hạt nhân được trang bị tên lửa SLBM (SSBN). Mặc dù Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang trong quá trình xây dựng một lực lượng tàu ngầm hạt nhân mới, nhưng lại có báo cáo cho rằng Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn vận hành một lực lượng tàu ngầm hạt nhân SSBN trong nhiều năm nay. Lực lượng SSBN này chưa triển khai bất kỳ hoạt động tuần tra ngăn chặn mang tính chiến lược nào. Một điều cũng được nhiều người biết đến là Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã nhiều lần không thể phát triển JL-2, một thế hệ tên lửa SLBM tiếp theo. Kết quả là, sức mạnh hiện tại của hạm đội SSBN của Hải quân Trung Quốc vẫn rất kém phát triển và còn lâu mới có thể hỗ trợ được cho chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Như đã nói, đây là con đường tương tự mà cả Hải quân Mỹ và Liên Xô đã trải qua trong giai đoạn phát triển ban đầu những chương trình SSBN của riêng họ trong những năm 1950 và 1960. Sau khi đối mặt với nhiều trở ngại kỹ thuật, Hải quân hai nước này cuối cùng đã giải quyết được những vấn đề khó khăn, và hạm đội SSBN của họ đã là một phần không thể thiếu trong quy mô hạt nhân chiến lược của họ từ giữa những năm 1960. Như vậy, hoàn toàn hợp lý khi đánh giá rằng sẽ chỉ là vấn đề về thời gian trước khi Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đưa ra những giải pháp chính xác cho việc phát triển JL-2 và triển khai một thế hệ SSBN mới.
Nhiệm vụ thứ hai của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong lĩnh vực hạt nhân là bảo về hạm đội SSBN của mình khỏi Vũ khí chống tàu ngầm (ASW), chủ yếu từ phía Hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ biển của Nhật Bản. Có một vài nhân tố cần được xem xét ở đây. Một là khu vực biển nơi Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc bố trí các lực lượng SSBN của mình. Từ lâu, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã triển khai lực lượng SSBN duy nhất của mình ở sâu trong biển Bột Hải (Bohai – TQ), nằm giữa bán đảo Liêu Đông (Liaodong – TQ) và Sơn Đông (Shandong – TQ). Cấu trúc bố trí quân này đã biến Bột Hải thành một nơi trú ẩn cho lực lượng SSBN Trung Quốc trong nhiều năm. Điều này gây khó khăn cho Hải quân Mỹ trong việc theo đuổi chiến lược ASW ở đó. Tuy nhiên, nên nhận thấy được rằng lực lượng SSBN duy nhất hiện nay của Trung Quốc mới chỉ có một tên lửa SLBM rất sơ khai, và điều đó không tạo ra mối đe dọa chiến lược nào một cách thực chất cho Mỹ. Hơn nữa, thông qua việc bố trí có giới hạn lực lượng SSBN tại vùng biển có diện tích hẹp này, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc giúp Mỹ dễ dàng duy trì Hệ thống phòng thủ tên lửa hành trình (BMD), bởi quỹ đạo của tên lửa SLBM được khai hỏa từ lực lượng SSBN tại Bột Hải sẽ được dự đoán khá dễ dàng. Nếu tên lửa SLBM được bắn từ một số địa điểm rải rác, Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc triển khai thành công hệ thống BMD.
Tuy nhiên, những bố trí lực lượng SSBN của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong tương lai có thể sẽ khác rất nhiều. Một báo cáo gần đây hé lộ rằng Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã hoàn tất việc xây dựng một căn cứ hải quân mới tại đảo Hải Nam (Hainan - TQ) ở biển Đông. Vị trí địa lý của đảo này có ý nghĩa chiến lược quan trọng với nhiều lý do khác nhau. Đảo Hải Nam nằm ở vị trí có thể kiểm soát được đường bờ biển phía bắc và trung Việt Nam. Nó cũng có được vị trí thuận lợi nhất để có thể quan sát và tiến hành các biện pháp quân sự đối với Hoàng Sa và Trường Sa (Paracel, Spratly) đang trong tranh chấp. Vị trí của đảo Hải Nam còn là một điểm lý tưởng để theo dõi sát sao các tuyến giao thông biển quốc tế nối liền eo biển Malacca/Singapore và eo Luzon/kênh Bashi, mà tuyến đường này từ lâu đã là tuyến huyết mạch của cả Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, đảo Hải Nam đặt ra một vấn đề nghiêm trọng cho Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đó là những đặc điểm địa lý của nó hoàn toàn khác Bột Hải. Căn cứ Hải Nam nằm lộ trước biển Đông, vì vậy bất kỳ tàu ngầm nào của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc hoạt động rời khỏi căn cứ này cũng nằm trong tầm ngắm của những lực lượng Vũ khí chống tàu ngầm (ASW) của Hải quân Mỹ vốn vẫn tự hào là lực lượng Tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) hiện đại nhất trên thế giới. Vì vậy, lực lượng SSBN của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc sẽ không còn được tận hưởng sự an toàn của “thiên đường tàu ngầm” tại Bột Hải. Nếu Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc bố trí lực lượng SSBN tại căn cứ Hải Nam, chúng chắc chắn sẽ luôn luôn là mục tiêu giám sát của lực lượng Tàu ngầm tấn công nhanh của Hải quân Mỹ. Vấn đề này khiến kế hoạch chiến lược của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa gặp nhiều khó khăn. Dĩ nhiên, tồn tại những lợi thế khác: đó là bố trí quân sự ở Hải Nam sẽ gây nhiều khó khăn hơn cho Hải quân Mỹ, cũng như cho Ấn Độ - đối thủ tiềm tàng của Trung Quốc, trong việc triển khai hệ thống BMD có hiệu quả. Nếu Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa dự định hạ thủy số lượng lớn lực lượng SSBN thế hệ tiếp theo cùng với căn cứ Hải Nam, họ sẽ khiến hệ thống BMD thậm chí gặp nhiều khó khăn hơn nữa – Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc có thể khai triển hai điểm tuần tra SSBN tại Ấn Độ Dương, Biển Đông, Bột Hải, hoặc Đại Tây Dương.
Một ưu điểm khác của căn cứ Hải Nam là sẽ có một số nơi trú ẩn lớn và vững chắc giúp bảo vệ những lực lượng SSBN nằm trong cảng. Theo các nguồn công khai, những nơi trú ẩn này bao gồm cả những cơ sở giúp lực lượng SSBN cập cảng. Chúng được xây dựng bằng bê tông chịu lực với thiết kế có thể chịu được tất cả những cuộc không kích có thể xảy ra. Những hầm trú ẩn này dường như mang một vài ưu điểm, nhưng chúng cũng nhắc chúng ta nhớ đến căn cứ tàu chữ U được xây dựng tốt tại Lorient nước Pháp, mà đã bị quân Đức chiếm đóng trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào thời điểm đó, lực lượng không quân Đồng minh đã gặp khó khăn trong việc phá hủy những nơi trú ẩn kiên cố này. Cuối cùng, chỉ có những nỗ lực bền bỉ vừa không kích vừa sử dụng Vũ khí chống tàu ngầm (ASW) tại những vùng biển xung quanh mới có thể vô hiệu hóa được căn cứ này, cùng với hạm đội tàu chữ U của Đức.
Mặc dù sức mạnh của căn cứ Hải Nam là một nhân tố quan trọng cần được xem xét trong kế hoạch chiến lược, nhưng nó không quan trọng bằng việc duy trì sự kiểm soát biển và những hoạt động của ASW. Trong trường hợp của căn cứ Hải Nam, vị trí kiểm soát sẽ là Biển Đông, cũng như những điểm tuần tra SSBN tiềm năng tại những vùng biển xung quanh. Đây là những yếu tố quan trọng hơn rất nhiều đối với Mỹ, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản và hải quân những nước khác trong khu vực. Vì vậy, đối với Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, bảo vệ hạm đội SSBN của mình khỏi mối đe dọa của Vũ khí ASW bên ngoài là một nhiệm vụ trọng tâm. Những yêu sách lãnh thổ kiên trì và ngày càng gia tăng đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là những tín hiệu rõ ràng cho thấy Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang bắt đầu triển khai thực hiện nhiệm vụ này. Do đó, sẽ là hoàn toàn tự nhiên nếu Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc xây dựng những căn cứ không quân cho lực lượng Hàng không-ASW của mình tại một số đảo lớn nhằm chống lại những lực lượng Tàu ngầm tấn công nhanh của Hải quân Mỹ và hải quân các nước láng giềng khác. Bên cạnh những căn cứ mặt đất này, tàu sân bay của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cũng trở thành lực lượng triển khai tác chiến trên không của hải quân giúp hỗ trợ những hoạt động của Vũ khí ASW liên hợp, bởi vì chúng có khả năng hoạt động linh hoạt hơn. Đây là một trong những lý lẽ hợp lý giải thích cho việc Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa cần có tàu sân bay.
Nhiệm vụ thứ ba của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong lĩnh vực hạt nhân là theo dõi lực lượng SSBN của Hải quân Mỹ và ngăn chặn các khả năng của chúng. Nếu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thật sự muốn tạo thế cân bằng răn đe hạt nhân chiến lược với Mỹ, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cần có khả năng ngăn chặn sự tuần tra của lực lượng SSBN của Hải quân Mỹ. Trong suốt Chiến tranh lạnh, Hải quân Mỹ và Liên Xô đều đã độc chiếm khả năng này. Nếu Trung Quốc muốn trở thành cường quốc hạt nhân như vậy, họ phải coi việc đạt được khả năng này là một nhiệm vụ dài hạn. Có hai căn cứ SSBN tại Mỹ, một ở Bangor, Washington và một ở Vịnh Kings, Nam Carolina. Trên lý thuyết, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cần duy trì một ham đội SSN lớn để theo dõi hoạt động tuần tra của những lực lượng SSBN Mỹ tại hai đại dương khác biệt ở cả hai bờ của lục địa Châu Mỹ. Dĩ nhiên, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc vẫn là một hải quân có tiềm năng phát triển trong tương lai, vì vậy cần quan sát xem liệu họ sẽ ưu tiên cho vấn đề này hay không. Có thể sẽ mất rất nhiều thời gian để hoàn thành được mục tiêu này.
4.Duy trì uy tín trong cộng đồng quốc tế như một siêu cường và đối tác ngang hàng của Mỹ
Đối với Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nhiệm vụ này không đạt được bằng con đường chiến đấu mà bằng những biện pháp hòa bình. Để có thể là một cường quốc toàn cầu có thể sánh bằng Mỹ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cần nhanh nhẹn trong việc khai triển lực lượng quân sự cho những nhiệm vụ phi chiến đấu như những hoạt động Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa (HADR). Điều này từ lâu đã được coi là đóng vai trò quan trọng thứ yếu. Tuy nhiên, trong bối cảnh địa chính trị hiện nay, nơi các mối quan hệ quốc tế ngày càng phức tạp, những nỗ lực chống khủng bố được ưu tiên trong chương trình nghị sự, và hình thức chiến tranh truyền thống là một điều không thể giữa những nước lớn, thì khả năng Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa được xem là một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành một cường quốc thế giới. Là thành viên mới trong câu lạc bộ các cường quốc, hoặc là một quốc gia duy nhất có tiềm năng thách thức sức mạnh Mỹ, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phải nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ này. Nhưng Trung Quốc vốn vẫn giữ khoảng cách nhất định đối với việc can dự quốc tế, và ít nhiệt tình đối với các hoạt động Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa so với các cường quốc quốc tế khác. Chỉ trong những thập kỷ gần đây, khi Trung Quốc ngày càng tăng mức độ phụ thuộc toàn cầu và sức mạnh của họ trên trường quốc tế cũng đã được tăng cường, Trung Quốc mới bớt miễn cưỡng can dự vào cộng đồng quốc tế.
Bên cạnh việc ngày càng nhận thức được tình hình, Trung Quốc đã bắt đầu cạnh tranh với những cường quốc khác trong cuộc đấu tranh giành tài nguyên thiên nhiên. Điều này đã buộc Trung Quốc phải thay đổi lập trường từ miễn cưỡng đến tham dự chủ động vào công việc quốc tế. Về lý thuyết, việc tranh giành tài nguyên thiên nhiên có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, vì thế quân đội phải có khả năng triển khai hoạt động trên quy mô toàn cầu, từ Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa đến “ngoại giao pháo hạm”.
Một sự kiện quan trọng cũng góp phần làm Trung Quốc thay đổi chính sách chính là kinh nghiệm đau xót của họ từ hoạt động cứu trợ thảm họa sóng thần tại Indonesia năm 2004. So sánh với Nhật Bản, Mỹ và thậm chí các nước châu Âu, Trung Quốc đã thất bại trong việc ứng phó kịp thời trước thảm họa. Kết quả là, họ chỉ đóng vai trò rất nhỏ trong hoạt động Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa quốc tế. Trung Quốc đã đánh giá tác động tiêu cực từ hành động của mình thời điểm đó và đã kết luận rằng danh tiếng và uy tín quốc tế của Trung Quốc đã bị ảnh hưởng đáng kể. Sau đó, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã thay đổi hoàn toàn chính sách cũ của mình. Đơn cử là việc cho hạ thủy một tàu bệnh viện mới, mang tên Đại Sơn Đảo (Daishan Dao – TQ, Peace Ark – tên quốc tế). Con tàu này đã được sử dụng phục vụ những nhiệm vụ nhân đạo và hữu nghị đối với Châu Phi, một trong những khu vực chiến lược quan trọng trong cuộc tranh giành tài nguyên thiên nhiên. Ý tưởng hạ thủy tàu Đại Sơn Đảo có lẽ đã bắt nguồn từ việc Hải quân Mỹ sử dụng hai tàu bệnh viện của chính họ như những đại sứ hòa bình. Những con tàu này phục vụ mục đích gián tiếp cho việc thể hiện sức mạnh và ý định chiến lược của Hải quân Mỹ.
Bên cạnh tàu bệnh viện, gần đây Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn có thêm những tàu đổ bộ và tàu đổ bộ nệm hơi. Đây sẽ là những tài sản không thể thiếu để có thể thực hiện những hoạt động Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thiên tại tại những vùng biển ngoài khơi. Bên cạnh đó, Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc còn tự tin công bố tàu sân bay đầu tiên của mình, mà hiện tại đang được sửa chữa và cải tiến. Tàu sân bay này sẽ phục vụ mục tiêu kép, một mặt là biểu tượng rõ ràng cho sức mạnh hải quân, và mặt khác là tài sản trên thực tế. Nếu cộng tất cả lại, thì một tàu sân bay và một tàu đổ bộ có bãi đáp lớn cho máy bay và chỗ neo đậu tàu là những tài sản lý tưởng để triển khai các hoạt động Hỗ trợ nhân đạo và Cứu trợ thảm họa. Chúng có tải trọng lớn, có một trực thăng, khả năng hạ cánh cho máy bay nhỏ, và có thể hoạt động trong thời gian dài.
Xem tiếp phần 3
Yoji Koda, Trung tâm Châu Á, Đại học Harvard
Bản gốc tiếng Anh “Commentary: A Japanese Perspective on China’s Rise as a Naval Power” tạp chí Harvard Asia Quarterly chủ đề “The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia” tháng 12/2010.
Người dịch: Nguyễn Phương Ly
Hiệu đính: Đỗ Thị Thủy
Đề nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết trên www.nghiencuubiendong.vn, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập NCBĐ
Nghiên cứu Biển Đông xin giới thiệu Báo cáo “Tăng cường kết nối giữa Hàn Quốc và các nước thành viên Quad tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”của Kristi Govella, Garima Mohan và Bonnie Glaser, chuyên gia Viện Quỹ German Marshall (GMF) . Theo nhóm tác giả, Hàn Quốc hiện có nhiều điều kiện để tăng hợp tác...
Ngày 28/8, tranh chấp Nhật-Hàn lại tiếp tục rơi vào bế tắc khi Nhật Bản chính thức loại Hàn Quốc ra khỏi “Danh sách trắng” về thương mại. Kể từ đầu tháng 7 đến nay, sau những đòn tấn công “ăn miếng trả miếng” quyết liệt, mâu thuẫn Nhật-Hàn đã leo thang, căng thẳng và phức tạp hơn. Cuộc khủng hoảng này...
Nhật Bản và Hàn Quốc là hai quốc gia chủ chốt ở châu Á – Thái Bình Dương đồng thời cũng là là quốc gia đồng minh chính trong chiến lược của Mỹ ở khu vực. Nhưng thù hằn quá khứ dai dẳng của Hàn Quốc với Nhật Bản vẫn luôn sôi sục từ lâu. Giờ đây, động thái áp đặt hạn chế thương mại của Nhật Bản đối với...
Từ các tuyên bố và thể hiện chính sách thời gian qua của Tổng thống Moon có thể dự báo là trong thời gian tới, Hàn Quốc sẽ thực thi chính sách đối ngoại khác biệt so với thời kỳ Tổng thống Pak Geun-hye; đặc trưng bởi quyết tâm theo đuổi quan hệ độc lập hơn so với Mỹ, củng cố quan hệ với Nhật, duy trì...
Tốc độ tiến triển nhanh chóng của ngoại giao Triều Tiên khiến cho việc Nhật Bản và Hàn Quốc phối hợp chặt chẽ hơn về những thay đổi tiềm tàng đối với an ninh Đông Bắc Á trở nên quan trọng. Nhưng trước tiên họ phải vượt qua một số nỗi oán giận thâm căn cố đế.
Thích ứng và lên kế hoạch cho các tình huống bất ngờ từ Trung Quốc và Triều Tiên sẽ chiếm phần lớn trong chính sách quốc phòng và những vấn đề về việc mua sắm của Nhật Bản.