Binh lính tại biên giới Trung-Ấn ở Himalaya, tháng 7/2006 (Ảnh: AP)

 

 

 

Gần 20 năm trước, cũng dựa trên những kỳ vọng như vậy, Washington đã bắt đầu giải quyết những bất đồng từ lâu đã kìm hãm mối quan hệ Mỹ-Ấn trong suốt giai đoạn Chiến tranh Lạnh và cho đến những năm 1990. Dưới thời Tổng thống George W. Bush, các quan chức Mỹ không còn khăng khăng yêu cầu Ấn Độ phải từ bỏ vũ khí hạt nhân, cho phép Washington và New Delhi ký kết một thỏa thuận hạt nhân mang tính bước ngoặt và mở đường cho các khoản đầu tư khổng lồ của Mỹ - cả về ngoại giao, kinh tế và quân sự - nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự trỗi dậy của Ấn Độ. Các đời chính quyền Mỹ kế nhiệm đã cho phép Ấn Độ tự do tiếp cận các công nghệ quân sự và thúc đẩy vai trò của Ấn Độ tại các thể chế quốc tế, đỉnh điểm là việc Tổng thống Mỹ Barack Obama tán thành nguyện vọng của Ấn Độ trở thành thành viên thường trực tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Mặc dù bị đẩy vào tình thế khó khăn do Chính quyền Trump coi thường vai trò của các đồng minh và đối tác, nhưng cách tiếp cận cơ bản này của Mỹ vẫn được duy trì cho tới ngày nay.

Tuy vậy, logic của mối quan hệ Mỹ-Ấn vẫn bị nhiều người hiểu lầm, đặc biệt là ở Mỹ. Sự thay đổi trong quan hệ Mỹ-Ấn kể từ những năm đầu thế kỷ này đã làm nảy sinh nhiều dự đoán cho rằng sớm hay muộn, hai quốc gia này sẽ trở thành đồng minh, liên kết chặt chẽ gần như trong mọi vấn đề chính sách đối ngoại lớn, nhưng gần như chỉ trên danh nghĩa. Việc một hiệp ước như vậy vẫn chưa được hiện thực hóa đã dần gây cảm giác thất vọng và nghi ngờ về khả năng tồn tại lâu dài của mối quan hệ này.

Những người chỉ trích bắt bẻ rằng Mỹ đã đầu tư quá mức vào Ấn Độ, những ưu ái dành cho New Delhi đã không được đền đáp xứng đáng. Chẳng hạn, họ nhắc đến việc Ấn Độ không thể chọn một loại máy bay chiến đấu của Mỹ cho lực lượng không quân nước này, hoặc việc Ấn Độ không thể ký kết mua lò phản ứng hạt nhân như đã hứa hẹn trong thỏa thuận hạt nhân mang tính đột phá. Ngay cả những người ủng hộ quan hệ đối tác giữa hai nước đôi khi cũng bực bội do mối quan hệ này đã tốn quá nhiều thời gian mà không mang lại kết quả như mong đợi. Chính quyền Trump đã đẩy sự thất vọng đi xa hơn, tập trung ít hơn vào tiềm năng của Ấn Độ với tư cách là một đối tác mà thay vào đó tập trung vào tình trạng mất cân bằng thương mại với Mỹ. Gần đây Mỹ đã rút lại đặc quyền tiếp cận thương mại của Ấn Độ với Mỹ theo chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), thẳng thừng thông báo quyết định này chỉ vài giờ sau khi Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tuyên thệ nhậm chức lần thứ hai sau chiến thắng ngoạn mục của ông trong cuộc bầu cử vào mùa Xuân vừa qua.

Cả những người chỉ trích lẫn những người ủng hộ mối quan hệ Mỹ-Ấn dường như đều nhất trí rằng cam kết mới giữa hai nền dân chủ này vẫn chưa mang lại sự gắn kết giống như một liên minh mà hai bên từng hi vọng. Những lời phàn nàn này là không chính xác. Kể từ đầu thế kỷ này, Ấn Độ đã ủng hộ mạnh mẽ trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt, mặc dù tỏ ra không quan tâm đến một liên minh với Mỹ. Nếu mục tiêu của Mỹ là biến Ấn Độ thành một đồng minh thân cận, dù chính thức hay không, thì Mỹ cũng sẽ thất bại. Thay vào đó, Washington và New Delhi cần phải cố gắng tạo dựng một mối quan hệ đối tác hướng tới các lợi ích chung mà không trông chờ vào một liên minh dưới bất cứ hình thức nào. Nói một cách đơn giản, thước đo cho sự thành công trong những nỗ lực của Mỹ ở Ấn Độ không phải là những gì Ấn Độ làm cho Mỹ mà là những gì Ấn Độ làm cho chính mình: Nếu New Delhi kết hợp các nỗ lực kinh tế và chính trị để tự biến mình thành một cường quốc – đặc biệt là vào thời điểm ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày càng gia tăng – thì tham vọng của Washington nhằm duy trì cái mà Cố vấn an ninh quốc gia khi đóCondoleezza Rice từng gọi là “cán cân sức mạnh ủng hộ sự tự do” sẽ được thỏa mãn ở châu Á.

Để đạt được mục tiêu đó, các quan chức Mỹ và Ấn Độ phải cùng suy nghĩ về mối quan hệ này theo một cách khác. Cuối cùng, trở ngại lớn nhất đối với một mối quan hệ đối tác sâu sắc hơn chính là sự ảo tưởng về những gì mình có thể đạt được.

Chủ nghĩa vị tha chiến lược

Quan hệ Mỹ-Ấn đã trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ ngay sau khi Bush (con) lên nắm quyền tổng thống vào năm 2001. Bush đã tìm cách thúc đẩy hợp tác với Ấn Độ theo những cách sẽ khắc phục các bất đồng hiện có và giúp cả hai bên đưa ra định hướng cho thế kỷ mới. Mặc dù cuộc chiến chống khủng bố đã mang lại cơ hội hợp tác đầu tiên (vì cả hai nước phải đối mặt với mối đe dọa từ các tổ chức thánh chiến), nhưng một thách thức chung lớn hơn đã hiện ra: sự trỗi dậy của Trung Quốc. Xét tới các tranh chấp biên giới đã có từ lâu với Trung Quốc, sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho đối thủ đáng gờm của Ấn Độ là Pakistan, và ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc ở Nam Á và xa hơn nữa, Ấn Độ có mối quan ngại lớn về Trung Quốc. Cụ thể, các nhà lãnh đạo ở New Delhi lo sợ rằng một Trung Quốc quá mạnh có thể kìm hãm sự tự do và an ninh của các nước láng giềng yếu hơn. Về phần mình, Mỹ đã bắt đầu coi sự trỗi dậy của Trung Quốc là một mối đe dọa đối với các đồng minh của họ như Đài Loan và Nhật Bản. Washington cũng lo lắng về các tham vọng của Bắc Kinh muốn Trung Quốc dần thay thế Mỹ trở thành bên đảm bảo an ninh chủ chốt ở châu Á và sự phản đối ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc đối với một hệ thống toàn cầu được củng cố nhờ ưu thế của Mỹ. Trong những lĩnh vực có liên quan đến Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ có lợi ích quốc gia đan xen. Washington tìm cách duy trì sự ổn định ở châu Á thông qua một dạng trật tự không dựa trên ưu thế của Trung Quốc mà dựa vào an ninh và chủ quyền của tất cả các nước trong khu vực. Bị thúc đẩy bởi nỗi lo sợ về sự thống trị của Bắc Kinh, Ấn Độ đã ủng hộ tầm nhìn của Washington hơn là của Bắc Kinh.

Đối với Ấn Độ, việc vô hiệu hóa những hiểm họa do một Trung Quốc đang lớn mạnh gây ra đòi hỏi nước này phải khôi phục sức mạnh của chính mình – nói cách khác, phải tự mình trở thành một cường quốc. Nhưng Thủ tướng Ấn Độ khi đó là Atal Bihari Vajpayee và những người kế nhiệm ông nhận ra rằng trong ngắn hạn, họ không thể tự mình đạt được mục tiêu này. Nền dân chủ cứng nhắc, những yếu kém về thể chế và văn hóa chiến lược thụ động của Ấn Độ sẽ cản trở họ tích lũy sức mạnh quốc gia một cách nhanh chóng. Sự hỗ trợ có phối hợp từ các cường quốc bên ngoài có thể giảm thiểu những điểm yếu này – và không đối tác bên ngoài nào có vai trò quan trọng như Mỹ. Sự hỗ trợ của Mỹ có thể tạo ra sự khác biệt giữa việc cân bằng một cách hiệu quả và một ván cược đã nắm chắc phần thua.

Chính quyền Bush hiểu rất rõ tình thế khó khăn của Ấn Độ. Sau nhiều trận chiến quan liêu khốc liệt, Mỹ đã phải chấp nhận luận điểm trọng tâm do Đại sứ quán Mỹ tại New Delhi nêu ra: Mỹ nên gạt sang một bên chính sách không phổ biến vũ khí hạt nhân đã có từ lâu liên quan đến Ấn Độ, coi đó như một phương tiện nhằm xây dựng Ấn Độ thành một cường quốc có thể đối trọng với Trung Quốc. Do đó, Washington đã bắt đầu truyền đạt sự ủng hộ dành cho New Delhi theo những cách mà trước đó vài năm, người ta dường như không thể tưởng tượng được. Mỹ đã bắt đầu làm việc với Ấn Độ trong 4 lĩnh vực mà trong đó, việc Ấn Độ sở hữu vũ khí hạt nhân từng khiến cho mọi sự hợp tác đều bất khả thi: an toàn hạt nhân dân sự, các chương trình không gian dân sự, thương mại công nghệ cao và phòng thủ tên lửa. Thỏa thuận hạt nhân dân sự - động thái đặt nền móng cho thành tựu của Bush trong nhiệm kỳ thứ hai - đã mở đầu cho việc khôi phục hợp tác với New Delhi về năng lượng hạt nhân dân sự mà không yêu cầu nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân.

Những người hoài nghi ở trong và ngoài chính phủ lập luận rằng Mỹ chỉ nên đề nghị hỗ trợ ở mức độ mà Ấn Độ có thể đáp lại bằng cách liên tục điều chỉnh các chính sách của mình sao cho phù hợp với các mục tiêu của Washington. Nhưng một đòi hỏi như vậy sẽ là công thức cho sự thất bại. Ấn Độ lớn đến mức không thể từ bỏ các lợi ích quốc gia sống còn khi chúng xung đột với các ưu tiên của Mỹ, và lòng tự tôn của họ lớn đến mức không thể trở thành tay sai của Washington. Ấn Độ cũng yếu hơn nhiều so với Mỹ và không thể thường xuyên đóng góp trực tiếp vào việc hiện thực hóa các mục tiêu của Mỹ.

Các chính sách hào phóng của Mỹ không chỉ đơn thuần là một sự ưu ái dành cho New Delhi; chúng là một bài tập có ý thức về lòng vị tha chiến lược. Khi tính toán các hình thức hỗ trợ chính trị khác nhau dành cho Ấn Độ, các nhà lãnh đạo Mỹ không đặt câu hỏi: “Ấn Độ có thể làm gì cho chúng ta?”. Họ hi vọng rằng quỹ đạo đi lên của Ấn Độ sẽ thay đổi cán cân sức mạnh ở châu Á theo những cách có lợi cho Mỹ và từ đó ngăn Bắc Kinh lạm dụng tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của nước này trong khu vực. Một Ấn Độ hùng mạnh về cơ bản sẽ có lợi cho Washington, ngay cả khi New Delhi thường làm theo cách của mình trong một số vấn đề chính sách cụ thể. Cả Bush lẫn người kế nhiệm ông, Obama, đều nhắm mắt làm ngơ trước các lập trường của Ấn Độ trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế, nền kinh tế gần như khép kín của nước này và hồ sơ biểu quyết của Ấn Độ tại Liên hợp quốc, tất cả đều đi ngược lại các ưu tiên của Mỹ.

Quan hệ đối tác Mỹ-Ấn được xây dựng dựa trên những tính toán cẩn trọng của mỗi bên: Washington, bất an trước viễn cảnh về một Trung Quốc đang nổi lên, đã tìm cách xây dựng các trung tâm quyền lực mới ở châu Á. Trong khi đó, New Delhi hi vọng có thể đối trọng với Trung Quốc bằng cách tăng cường sức mạnh quốc gia của chính mình, với Mỹ đóng vai trò vừa là nguồn hỗ trợ, và nói một cách rộng hơn, vừa là người bảo vệ cho trật tự quốc tế tự do. Theo những điều kiện này, quan hệ đối tác giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ. Hai bên đã ký kết một thỏa thuận hợp tác quốc phòng năm 2005 – thỏa thuận hợp tác quốc phòng đầu tiên New Delhi ký với bất kỳ quốc gia nào – và tiến tới ký kết Tầm nhìn chiến lược chung Mỹ-Ấn cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương năm 2015; các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ, phá vỡ sự miễn cưỡng trong quá khứ, đã ủng hộ mục tiêu của Mỹ “đảm bảo quyền tự do hàng hải và hàng không trên toàn khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông”, và nhất trí với một lộ trình hướng tới hợp tác quân sự song phương trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, cùng với nhiều điều khác. Các thương vụ Ấn Độ mua bán trang thiết bị quân sự của Mỹ vì mục tiêu quốc phòng đã gia tăng đáng kể - từ con số 0 trong năm 2000 đã tăng lên hơn 18 tỷ USD năm 2018 – khi New Delhi bắt đầu chuyển hướng khỏi Nga, nước cung cấp vũ khí chính cho Ấn Độ theo truyền thống. Hợp tác Mỹ-Ấn đã tăng cường trong một số lĩnh vực, trong đó có chống khủng bố, chia sẻ thông tin tình báo, quan hệ giữa quân đội hai nước, an ninh không gian mạng, cũng như các vấn đề nhạy cảm khác như biến đổi khí hậu và an ninh hạt nhân. Đối với hai quốc gia đã từng bất hòa cách đây 3 thập kỷ, đây là một thành tựu đáng chú ý.

Chuỗi ngọc trai

Tổng thống Mỹ Donald Trump đã làm phức tạp thêm mối quan hệ này. Chính quyền của ông đã chuyển từ chủ nghĩa vị tha chiến lược sang một khái niệm hẹp hơn và vị kỷ hơn về các lợi ích quốc gia của Mỹ. Tầm nhìn “Nước Mỹ trước tiên” đã đảo ngược một giao kèo hậu Chiến tranh thế giới thứ hai rằng Mỹ sẽ chấp nhận những gánh nặng không tương xứng thay cho các nước bạn bè của mình, hiểu rằng thành công chung của các nước dân chủ sẽ phục vụ cho lợi ích của Washington trong cuộc đấu tranh chống lại mối đe dọa lớn hơn từ chế độ độc tài. Tất nhiên, Ấn Độ là một bên hưởng lợi của giao kèo này ít nhất kể từ năm 2001.

Theo một số cách, quan hệ Mỹ-Ấn không thay đổi nhiều trong kỷ nguyên của Trump như nhiều người dự đoán. Có một số lý do để mối quan hệ này tiếp diễn. Thứ nhất, New Delhi nhận thấy các cơ hội chính sách đối ngoại trong chiến thắng của Donald Trump – chẳng hạn như khả năng Mỹ cải thiện quan hệ với Nga - một đồng minh lâu đời của Ấn Độ, và kiềm chế hơn trong việc sử dụng vũ lực ở bên ngoài, trao cho Ấn Độ ảnh hưởng lớn hơn để thúc đẩy tầm nhìn của nước này về một trật tự thế giới đa cực. Nhiều người cũng tin rằng Trump có thể ít gây sức ép hơn đối với Ấn Độ trong các chính sách khí hậu và quan hệ của nước này với Pakistan.

Trên hết, tính toán an ninh căn bản của Ấn Độ không hề thay đổi. Các nhà lãnh đạo ở New Delhi vẫn tin rằng Trung Quốc đang cố gắng thay thế Mỹ trở thành cường quốc hàng đầu ở châu Á, rằng kết quả này sẽ vô cùng tồi tệ đối với Ấn Độ, và chỉ có mối quan hệ đối tác mạnh mẽ với Mỹ mới có thể ngăn chặn điều đó. Như một nhà hoạch định chính sách cấp cao của Ấn Độ đã nói, sự trỗi dậy của Trung Quốc “mạnh mẽ đến mức nó có thể khiến cho mọi chính phủ khác phải xem xét lại các nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của họ”.

New Delhi đặc biệt lo ngại rằng Trung Quốc đang bao vây Ấn Độ bằng một “chuỗi ngọc trai” – một tập hợp các căn cứ hải quân và cơ sở lưỡng dụng ở Ấn Độ Dương mà sẽ đe dọa an ninh của Ấn Độ. Một trung tâm vận chuyển do Trung Quốc tài trợ ở Sri Lanka và một cảng nước sâu do Trung Quốc kiểm soát ở Pakistan đã thu hút sự quan tâm đặc biệt. Trung Quốc cũng đã đầu tư 46 tỷ USD vào một phần trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” chạy qua Kashmir, khu vực được cả Ấn Độ lẫn Pakistan tuyên bố chủ quyền. Sự hỗ trợ về kinh tế, chính trị và quân sự của Trung Quốc dành cho Pakistan, đối thủ của Ấn Độ trong suốt 70 năm và cũng là kẻ thù trong 3 cuộc chiến lớn, cho thấy Trung Quốc đang cố gắng lập ra một yếu tố đối trọng với Ấn Độ trong khu vực.

Ấn Độ cũng quan sát trong tâm trạng ngày càng lo lắng khi Trung Quốc quân sự hóa bất hợp pháp các đảo nhân tạo ở Biển Đông, phản đối Ấn Độ trở thành thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và ngăn chặn Ấn Độ gia nhập Nhóm các nước cung cấp hạt nhân, một tổ chức quốc tế gồm các quốc gia cung cấp hạt nhân cam kết không phổ biến vũ khí hạt nhân. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ rộng lớn của Ấn Độ ở dãy Himalaya, đặt câu hỏi về chủ quyền của Ấn Độ đối với Kashmir, và vào năm 2018 đã gây ra một cuộc đối đầu quân sự với binh lính Ấn Độ trên lãnh thổ Bhutan. Ở Tây Tạng, Trung Quốc đã xây dựng những con đập có khả năng hạn chế dòng chảy vào Ấn Độ, làm trầm trọng thêm tình trạng khan hiếm nước và khiến việc kiểm soát lũ ở vùng đồng bằng Ấn Độ trở nên phức tạp hơn.

Phản ứng của Ấn Độ trước mối đe dọa ngày càng gia tăng từ phía Trung Quốc là phát triển năng lực của riêng mình, trong đó có các khả năng quân sự. Nhưng Chính phủ Ấn Độ nhận ra rằng chỉ Mỹ mới có sức mạnh cần thiết để ngăn chặn Trung Quốc trở thành bá chủ châu Á trong những thập kỷ tới. Do đó, việc thúc đẩy mối quan hệ với Mỹ vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại hàng đầu của Ấn Độ. Thái độ cởi mở như vậy đối với ảnh hưởng của Mỹ trái ngược hoàn toàn với lời kêu gọi “người châu Á điều hành sự vụ ở châu Á, giải quyết các vấn đề của châu Á và bảo vệ an ninh châu Á” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình - một tầm nhìn an ninh khu vực không có Mỹ.

Phấn chấn nhờ hy vọng rằng Washington sẽ tiếp tục đóng vai trò là bên bảo đảm an ninh kiên định ở châu Á, Ấn Độ bắt đầu thể hiện lập trường cứng rắn hơn nhiều đối với Trung Quốc. Nước này đã lên án các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Đông và việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo này, cũng như các nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm suy yếu tinh thần đoàn kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), nhấn mạnh tầm quan trọng của “vai trò trung tâm của ASEAN” trong chính sách Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của họ. New Delhi cũng đã bắt đầu can dự nhiều hơn vào Đối thoại an ninh bốn bên, một nhóm không chính thức gồm Australia, Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ nhằm thảo luận về cách thức bảo vệ khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ngoài ra, New Delhi phản đối mạnh mẽ hơn nữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Bắc Kinh bằng cách hợp tác với Nhật Bản trong các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ở Nam Á và Đông Nam Á cũng như ở châu Phi.

Điều quan trọng nhất là trong những năm cuối của Chính quyền Obama, Ấn Độ đã bắt đầu âm thầm hợp tác với quân đội Mỹ thông qua việc chia sẻ thông tin tình báo, đồng thời tiếp tục mở rộng các cuộc tập trận quân sự với Mỹ. Về phần mình, Chính quyền Trump đã bắt đầu quyết tâm đối đầu với Trung Quốc, khiến New Delhi rất hài lòng. Chính quyền Trump cũng đã đưa ra cả chiến lược Nam Á lẫn chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhấn mạnh vai trò then chốt của Ấn Độ trong khu vực, cho phép Ấn Độ mua máy bay không người lái và các hệ thống vũ khí tiên tiến khác, và đặt Ấn Độ ngang hàng với các đồng minh NATO trong việc trao đổi các công nghệ nhạy cảm. Các dự án quốc phòng khác, chẳng hạn như việc Ấn Độ mua các công nghệ quân sự tiên tiến để hành động chống lại sự hiện diện ngày càng lớn của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, vẫn đang trong giai đoạn lập kế hoạch, nhưng dù sao vẫn đáng lưu ý đối với một đất nước vốn từ lâu đã ca ngợi giá trị của lập trường không liên kết.

Mối quan hệ mất phương hướng?

Tuy nhiên, quan hệ Mỹ-Ấn hầu như không thể tránh khỏi những hệ quả của chính sách đối ngoại gây rối loạn và thường phản tác dụng của Chính quyền Trump. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ muốn Washington giữ thái độ vị tha chiến lược truyền thống đối với New Delhi đồng thời làm bất kỳ điều gì cần thiết để bảo vệ một trật tự quốc tế tự do mà sẽ được mở ra cho một Ấn Độ đang trỗi dậy. Trên cả hai phương diện, hành động của Trump đều khiến họ bồn chồn.

Trump đã hoài nghi về giá trị của các liên minh của Mỹ và làm dấy lên những nghi ngờ về việc liệu Mỹ có bảo vệ các đồng minh NATO của nước này trước một cuộc tấn công của Nga hay không, khiến ngay cả những nhân vật kiên quyết ủng hộ Mỹ như Modi cũng phải tự hỏi liệu Ấn Độ có thể trông cậy vào sự trợ giúp của Mỹ trong trường hợp xảy ra một cuộc khủng hoảng lớn với Trung Quốc hay không. Lo ngại gia tăng khi có sự nghi ngờ rằng nước Mỹ dưới thời Trump bị chia rẽ nội bộ gay gắt đến mức không thể tập trung sức mạnh, sự đoàn kết và quyết tâm cần thiết để cạnh tranh với Trung Quốc trong dài hạn. Trump cũng đã phát động cuộc chiến thương mại với các đồng minh như Nhật Bản và EU, và các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ giờ đây đang phải vật lộn với các biện pháp trừng phạt thương mại của Trump nhằm vào Ấn Độ; cuối năm 2018, Trump đã gọi Ấn Độ là “vua thuế quan”. Tương tự, khi xét tới việc Chính quyền Trump đã đưa ra những quyết định chính sách trọng yếu có liên quan đến chương trình hạt nhân của Triều Tiên mà không tham vấn Hàn Quốc hay Nhật Bản, ai có thể khẳng định được Washington sẽ sẵn sàng giúp đỡ trong các vấn đề có liên quan tới lợi ích sống còn của Ấn Độ? Cách tiếp cận của Chính quyền Trump đối với vấn đề hòa bình và hòa giải ở Afghanistan, mà không cân nhắc tới các lợi ích của Ấn Độ, đã giúp New Delhi nhận thức rõ điều này. Trump phần lớn bỏ qua đòi hỏi cấp thiết là bảo vệ các liên minh của Mỹ ở châu Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc - bất chấp vai trò trung tâm của lục địa này trong các văn kiện chính sách mà chính quyền của ông đã công bố. Trump có vẻ không mấy quan tâm tới những vấn đề nằm ngoài cán cân thương mại giữa Mỹ và các nước lớn ở châu Á. Thay vào đó, ông đã chọn cách đẩy mạnh đầu tư vào mối quan hệ cá nhân với các nhà lãnh đạo chuyên quyền như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un. Tính khí thất thường của Trump, vốn khiến người ta phải nghi ngờ về độ tin cậy của các cam kết mà ông đưa ra, cũng như sự ra đi của những người ủng hộ Ấn Độ trong Chính quyền Trump, chẳng hạn như cựu Bộ trưởng Quốc phòng James Mattis, chỉ khiến tình hình càng thêm tồi tệ, bất chấp những nỗ lực gần đây của Ngoại trưởng Mike Pompeo nhằm cải thiện tình trạng mất phương hướng của quan hệ Mỹ-Ấn.

Câu hỏi khó trả lời mà các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ đang phải đối mặt là liệu họ có thể tiếp tục trông cậy vào mối quan hệ hợp tác với một Washington mà dường như đã từ bỏ trật tự quốc tế tự do và hầu như không nhiệt tình với việc tiếp tục tỏ thái độ vị tha chiến lược với New Delhi. Mặc dù muốn có quan hệ vững mạnh hơn với Washington - một phần vì Modi đã dành nhiều vốn liếng cho công cuộc này - song họ đã bắt đầu đa dạng hóa danh mục vốn đầu tư quốc tế của Ấn Độ và cải thiện quan hệ của New Delhi với Bắc Kinh và Mát-xcơ-va. Tháng 6/2018, chính Modi đã sử dụng một bài phát biểu quốc tế quan trọng để làm sống lại khái niệm “tự chủ chiến lược”, một cụm từ cũ rích của Ấn Độ mà theo truyền thống phản ánh chính sách tìm kiếm quan hệ tốt đẹp với Mỹ sao cho không để bị Trung Quốc hay Nga xa lánh. Việc Modi lựa chọn cách phòng vệ địa chính trị như vậy dù biết rõ rằng chiến lược này sẽ không bảo vệ Ấn Độ trước thái độ thù địch gia tăng của Trung Quốc nói lên nhiều điều về cuộc khủng hoảng niềm tin của Ấn Độ đối với nước Mỹ của Trump với tư cách một đối tác an ninh.

Những bất đồng gay gắt kéo dài về vấn đề thương mại, Iran và Nga đã làm phức tạp hơn nữa mối quan hệ này. Tháng 9/2018, để đối phó với sự giảm giá của đồng rupee so với đồng USD, Chính quyền Modi đã tuyên bố áp thuế đối với nhiều mặt hàng nhập khẩu như nhiên liệu máy bay, nhựa, đá quý và giày dép. Sau nhiều lần trì hoãn việc đạt được một dàn xếp trong tranh chấp thương mại với Mỹ, Ấn Độ cũng đã áp thuế đối với nông sản và kim loại của Mỹ để đáp trả thuế quan của Mỹ đối với thép và nhôm nhập khẩu. New Delhi cũng lo ngại về những khó khăn ngày càng gia tăng mà các công dân Ấn Độ đang phải đối mặt khi xin thị thực H1-B, vốn cho phép người lao động làm các công việc chuyên môn ở Mỹ. Về phần mình, Washington muốn giảm bớt rào cản đối với Mỹ trong việc tiếp cận thị trường Ấn Độ, vốn bị cản trở bởi thuế quan đối với nông sản và hàng chế tạo - mặt hàng bị đánh thuế do sáng kiến “Make in India” với mục đích thúc đẩy hoạt động chế tạo trong nước. Các công ty Mỹ ở Ấn Độ cũng phải đối mặt với những hạn chế về thu thập dữ liệu và giá cả các sản phẩm y tế.

Mỹ và Ấn Độ hiện đang thảo luận về cách thức giải quyết các vấn đề này, nhưng cấu trúc của một thỏa thuận tiềm năng vẫn chưa rõ ràng. Washington có thể áp dụng cơ chế miễn thuế thép và nhôm lâu dài đối với New Delhi, có thể là để đổi lấy những nhượng bộ cụ thể về giá cả thiết bị y tế và hàng hóa công nghệ thông tin nhập khẩu. Nhưng Chính quyền Trump có khả năng sẽ không chấm dứt các cuộc đối đầu thương mại trong thời gian tới. Và Ấn Độ có khả năng sẽ không mở cửa đáng kể các thị trường của nước này trong tương lai gần: Tự do hóa thương mại vẫn nằm ở cuối danh sách các cuộc cải cách kinh tế trong tương lai của Ấn Độ, phần lớn vì nước này muốn bảo vệ nền kinh tế của họ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài càng lâu càng tốt. Mặc dù còn tiến hành những cải cách kinh tế khác, nhưng Modi thực ra đã kéo Ấn Độ lùi lại một bước trong thương mại khi tăng thuế để tạo thu nhập. Bất chấp nguy cơ chủ nghĩa bảo hộ gia tăng có thể phá hoại sự tiến bộ của đất nước từ khi nước này tự do hóa chế độ thương mại vào đầu những năm 1990, đe dọa giấc mơ của Modi biến Ấn Độ trở thành một cường quốc hàng đầu và làm trầm trọng thêm những xung đột thương mại với Washington, New Delhi dường như không có tầm nhìn cũng như mong muốn tự do hóa thương mại.

Iran là một vấn đề lớn gây tranh cãi khác. Ấn Độ, với mối quan hệ từ nhiều thế kỷ trước với Iran, ủng hộ mạnh mẽ thỏa thuận hạt nhân Iran năm 2015. Trước đó, nước này lo ngại rằng một cường quốc hạt nhân dòng Shiite chắc chắn sẽ kích động một làn sóng phổ biến hạt nhân trong thế giới Arập dòng Sunni, khiến Ấn Độ phải đối phó với thêm nhiều cường quốc hạt nhân Hồi giáo ở phía Tây. Sau khi Chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận hạt nhân Iran, vào tháng 5/2018, Ấn Độ đã cùng với nhiều nước khác tìm cách duy trì sự tồn tại của các yếu tố trong thỏa thuận này và né tránh các biện pháp trừng phạt của Mỹ nhằm vào Iran, nhất là đối với dầu mỏ. Khi Mỹ áp đặt trở lại các biện pháp trừng phạt đối với dầu mỏ vào tháng 11/2018, Ấn Độ là một trong số 8 quốc gia được Mỹ miễn trừng phạt trong 6 tháng. Sau đó, trong một nỗ lực nhằm xoa dịu Mỹ, Ấn Độ đã giảm mạnh nhập khẩu dầu mỏ từ Iran, bất chấp việc nước này coi trọng mối quan hệ hợp tác của họ với Iran (một phần vì Iran cho phép Ấn Độ tiếp cận Afghanistan mà không phải đi qua lãnh thổ Pakistan). Chính quyền Trump muốn Ấn Độ hợp tác trong cuộc đối đầu với Iran, nhưng Ấn Độ lại miễn cưỡng đụng độ với Iran vào thời điểm họ đã làm nhiều hơn so với những đòi hỏi ban đầu của Mỹ trong việc giảm thiểu nhập khẩu năng lượng từ Iran. Do đó, Iran có khả năng vẫn sẽ là nguyên nhân gây xích mích trong quan hệ Mỹ-Ấn trong tương lai gần.

Quan hệ với Nga là một chướng ngại vật khác. Ấn Độ lo ngại rằng bất chấp việc Tổng thống Donald Trump rõ ràng muốn cải thiện quan hệ với Tổng thống Nga Vladimir Putin, Chính phủ Mỹ đang đẩy Nga vào mối quan hệ ngày càng gần gũi hơn với Trung Quốc, trong đó có việc tăng cường hợp tác giữa quân đội hai nước. Đồng thời, New Delhi cũng quyết tâm bảo vệ quan hệ với Mát-xcơ-va, trong đó có quan hệ hợp tác quốc phòng kéo dài hàng thập kỷ. Tháng 10/2018, Ấn Độ tuyên bố thỏa thuận mua hệ thống phòng không S-400 trị giá 6 tỷ USD của Nga, và hai nước đã tái khẳng định quan hệ đối tác quân sự giữa họ. Nếu Chính quyền Trump không ban hành lệnh miễn trừ đối với thương vụ này, thì thỏa thuận nói trên sẽ kích hoạt các biện pháp trừng phạt gián tiếp nhằm vào Ấn Độ theo Đạo luật chống lại các đối thủ của Mỹ thông qua các biện pháp trừng phạt (CAATSA). Tuy vậy, Nirmala Sitharaman, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ, đã tuyên bố vào tháng 7/2018 rằng Ấn Độ sẽ không thay đổi lập trường đã có từ lâu của mình đối với S-400 nếu chỉ dựa trên luật pháp trong nước của Mỹ. (Các quan chức cấp cao trong chính quyền có vẻ đã hứa hẹn sẽ miễn trừ việc áp đặt lệnh trừng phạt đối với thương vụ mua S-400 cho Ấn Độ nếu nước này hợp tác bằng cách giảm mua dầu mỏ của Iran - điều mà họ đã làm - nhưng Chính quyền Mỹ giờ đây dường như đã đổi ý). Cho đến nay, hai bên dường như đều không có động thái gì, và nếu vấn đề này vẫn không được giải quyết thì thiệt hại ngoài dự kiến sẽ là rất lớn.

Đối tác chứ không phải đồng minh

Washington đã đi theo đường lối cứng rắn đối với tất cả những vấn đề này, chí ít là họ đã công khai như vậy. Đó là vì dưới thời Trump, thái độ vị tha chiến lược đối với Ấn Độ đã nhường chỗ cho những đòi hỏi về hành động có đi có lại cụ thể. Tuy nhiên, kỳ vọng này của Mỹ, mà ngay cả các đồng minh hiệp ước với Mỹ cũng khó lòng thỏa mãn, là quá lớn so với khả năng đáp ứng của Chính phủ Ấn Độ cho dù thân thiện với Mỹ. New Delhi sẵn lòng hợp tác khi các lợi ích quốc gia chung đang bị đe dọa, như trong việc tạo thế cân bằng với Trung Quốc, nhưng sẽ tìm kiếm khả năng làm theo cách của riêng mình mà không bị trừng phạt khi lợi ích của Mỹ và của Ấn Độ là khác nhau.

Rốt cuộc, cách tiếp cận của cả Mỹ lẫn Ấn Độ đều không đem lại nền tảng ổn định cho hợp tác dài hạn, mà sẽ chỉ dẫn tới những chua cay và thất vọng. Mỹ cần phải nhận ra rằng Ấn Độ không phải là đồng minh và sẽ không hành xử như một đồng minh, mặc dù có những vấn đề mà trong đó các lợi ích sống còn của hai quốc gia phù hợp với nhau. Việc tăng cường những sự hội tụ đó phải được Washington ưu tiên. Để đạt được mục tiêu này, trong một số hoàn cảnh nhất định, Mỹ nên ngừng đưa ra những đòi hỏi đối với Ấn Độ mà có thể đe dọa quan hệ của New Delhi với các đối tác khác của nước này: khi các lợi ích sống còn của Mỹ không bị đe dọa, khi những đòi hỏi này sẽ phá hoại sự tiến bộ hướng tới việc chung tay tạo thế cân bằng với Trung Quốc, và khi chúng có liên quan tới những bất đồng thứ yếu trong mối quan hệ song phương với Ấn Độ. Và Ấn Độ không nên chắc chắn rằng Mỹ sẽ duy trì thái độ vị tha chiến lược, cũng như nên ngừng giả định rằng họ có thể dựa vào sự hào phóng tiếp tục của Mỹ ngay cả khi không có bất kỳ nỗ lực nào từ phía New Delhi nhằm khiến cho sự hào phóng đó trở nên đáng giá. Đối với Ấn Độ, điều này đồng nghĩa với việc đóng góp cho trật tự quốc tế tự do vào thời điểm mà cam kết của Washington về việc gánh vác những phí tổn đó đang lung lay, đẩy nhanh hợp tác quốc phòng với Mỹ và theo đuổi những cải cách kinh tế mà sẽ cho phép các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận nhiều hơn với nền kinh tế ngày càng tăng trưởng của Ấn Độ.

Hai bên cần ưu tiên hợp tác thực tế nhằm tạo thế cân bằng với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Họ cần bắt đầu bằng việc thường xuyên chia sẻ thông tin tình báo về hoạt động hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc và thông tin thời gian thực về những động thái quân sự của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Mỗi bên có thể cho phép quân đội của bên kia sử dụng các cơ sở của mình để luân phiên tiếp cận. Và bằng việc hợp tác trong tác chiến chống tàu ngầm và tàu mặt nước, phòng không và phòng thủ tên lửa, cũng như công nghệ không gian mạng và vũ trụ, họ có thể xây dựng một hệ thống chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực chung nhằm hạn chế các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Friedrich Nietzsche từng nói: “Việc quên mất ý định của chúng ta là hành động thường gặp nhất trong tất cả những hành động ngu ngốc”. Washington và New Delhi cần nhớ rằng mục tiêu cấp bách nhất của họ cho đến nay không phải là nhất trí về vấn đề thương mại, Iran hay Nga, mà là việc đối phó với sức mạnh của một Trung Quốc đang trỗi dậy trong những thập kỷ sắp tới. Nếu việc tạo thế cân bằng với Trung Quốc trong bối cảnh bảo vệ trật tự quốc tế tự do vẫn là mục tiêu, thì việc hành động hướng tới mục tiêu đó, cả đơn phương lẫn song phương, sẽ là điều đáng làm đối với cả hai bên, bất chấp tất cả những bất đồng không thể tránh khỏi trong các vấn đề khác./.

Robert D. Blackwill là Học giả cao cấp (Senior Fellow) Henry A. Kissinger về chính sách đối ngoại Mỹ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations). Ông là Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ (2001-2003) và Phó Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Mỹ George W. Bush (2003-2004). Ashley J. Tellis là Chủ tịch Tata về các vấn đề chiến lược và là thành viên cao cấp tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế. Ông từng là Cố vấn cao cấp trong Đại sứ quán Mỹ tại New Delhi (2001-2003). Bài viết được đăng trên trang Foreign Affairs.

Ngọc Tú (gt)