Tóm tắt

- Theo kết quả cuộc khảo sát mới đây nhất về các nước Đông Nam Á do Viện nghiên cứu Đông Nam Á công bố vào tháng 1/2020, đông đảo giới tinh hoa Đông Nam Á đều nhìn nhận Trung Quốc là nước có ảnh hưởng lớn nhất về kinh tế trong khu vực.

- Tuy nhiên, phần lớn những người tham gia khảo sát công nhận tầm quan trọng về kinh tế của Trung Quốc cảm thấy lo lắng về điều đó. Ngay cả những nước tiếp nhận viện trợ trong khuôn khổ sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI) đặc trưng của Trung Quốc trong khu vực cũng không chắc liệu đây có phải là một thỏa thuận công bằng đối với họ hay không.

- Đằng sau nỗi lo lắng này là sự thiếu niềm tin vào việc Trung Quốc sẵn sàng hành động vì lợi ích chung. Thay vào đó, Đông Nam Á tìm kiếm vai trò lãnh đạo trong vấn đề này từ các nguồn sức mạnh khác, như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản và ở mức độ hạn chế hơn là Mỹ.

- Trung Quốc có thời gian và không gian để giải quyết những quan ngại của khu vực. Nhiều người tin rằng quan hệ với Bắc Kinh sẽ được tăng cường và có dấu hiệu cho thấy họ sẽ tiếp tục cởi mở và thực dụng trong các thỏa thuận với Trung Quốc.

Giới thiệu

Trong thập kỷ qua, Đông Nam Á đã trở thành tâm điểm chú ý toàn cầu vì những lý do mong muốn lẫn những lý do không mong muốn. Việc được nhìn nhận là một trong những khu vực phát triển nhanh nhất và năng động về kinh tế trên thế giới mà nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp toàn cầu đang săn đón rõ ràng là tín hiệu tích cực. Đồng thời, sự tranh giành ảnh hưởng khu vực ngày càng tăng giữa Trung Quốc và Mỹ đã trở thành vấn đề rất đáng quan ngại ở hầu hết các thủ đô của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Trong bối cảnh này, “Báo cáo khảo sát tình hình Đông Nam Á năm 2020” do Viện nghiên cứu Đông Nam Á công bố vào tháng 1 tiết lộ một số suy nghĩ thầm kín của bộ phận tinh hoa Đông Nam Á trong giới cầm quyền, doanh nghiệp, xã hội dân sự, truyền thông và giới học thuật. Các nước lớn sẽ không cảm thấy thoải mái khi đọc được những suy nghĩ này. Trong khi một vài nước coi một số phát hiện là những dấu hiệu tích cực, một số khác sẽ trở nên tỉnh táo hoặc thậm chí có thể xem đây như một lời cảnh tỉnh. Bài viết này sẽ tập trung vào những phát hiện đối với Trung Quốc.

Nhận thức về ưu thế áp đảo

Trước tiên là lợi thế của Trung Quốc. Trung Quốc được nhiều người nhìn nhận là cường quốc kinh tế có ảnh hưởng nhất trong khu vực, thậm chí còn có ảnh hưởng hơn so với cuộc khảo sát tương tự vào năm 2019. Trên thực tế, trong nhận thức của khu vực, Trung Quốc có ưu thế lớn đến mức nước này nhận được nhiều gấp 10 lần số phiếu bầu chọn cho các nước/khu vực khác. Thứ tự tiếp theo thuộc về Mỹ và ASEAN.

Một số nhà kinh tế học sẽ cảm thấy sự bối rối của khu vực trước ưu thế áp đảo của Trung Quốc vì nó không hoàn toàn trùng khớp với dữ liệu kinh tế khách quan. Số liệu chính thức của ASEAN cho thấy trong năm 2018, Trung Quốc tụt hậu so với cả EU lẫn Nhật Bản xét về dòng chảy đầu tư nước ngoài vào Đông Nam Á. Các số liệu do nhiều nhà nghiên cứu thu thập cho thấy Trung Quốc thậm chí tụt hậu hơn nữa nếu xét về dự trữ vốn đầu tư nước ngoài hiện có ở các nước ASEAN, cho dù họ đang chạy đua để bắt kịp các nước trong những năm gần đây. Tương tự, xét về sự hiện diện của các doanh nghiệp, các công ty Trung Quốc chỉ chiếm một phần nhỏ so với các công ty đến từ Mỹ, Nhật Bản và châu Âu. Ngay cả trong lĩnh vực thương mại, mặc dù Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu đối với nhiều nước ASEAN, nhưng họ chiếm chưa đến 18% tổng kim ngạch thương mại của khu vực. Xét chung toàn khu vực, trên thực tế, kim ngạch thương mại nội khối ASEAN lớn hơn 1/3 so với kim ngạch thương mại của khối này với Trung Quốc.

Một lý do dẫn đến nhận thức thái quá như vậy về Trung Quốc có thể là vì Trung Quốc chi phối các lĩnh vực dễ xuất hiện trên mặt báo và dễ gây chú ý như các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn và du lịch. Các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn tác động đến nơi ở của người dân địa phương, ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực đến các doanh nghiệp và đòi hỏi lượng lớn người lao động Trung Quốc trong giai đoạn thực hiện, khiến người dân địa phương khó có thể phớt lờ. Dòng du khách Trung Quốc đổ về cũng gây chú ý đáng kể ở địa phương và có tác động nhanh chóng theo một cách nào đó, thể hiện một cách đầy đủ qua việc số lượng du khách Trung Quốc sụt giảm do dịch COVID-19 đang diễn ra.

Một lý do khác có thể giải thích tại sao ảnh hưởng của Trung Quốc lại được cảm nhận rõ ràng hơn là Chính phủ Trung Quốc can dự nhiều hơn vào dự án của các công ty Trung Quốc. Với việc các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chính trong hoạt động đầu tư ra bên ngoài của Trung Quốc và nhận thức rằng các quyết định kinh doanh của họ đều vì những lý do chiến lược cũng như kinh tế, quan điểm này sẽ ngày càng vững chắc theo thời gian. Các khoản đầu tư từ những nguồn lực lớn khác không được nhìn nhận như nhau. Chẳng hạn, Chính phủ Malaysia đã đàm phán với Trung Quốc về dự án Tuyến đường sắt bờ Đông cho dù đây là khoản đầu tư của doanh nghiệp. Đây là điều Malaysia không định làm với Mỹ để nhận đầu tư từ Microsoft hay Dell. Nếu cách nhìn nhận này quả thật là một nhân tố, thì bản chất của hệ thống kinh tế Trung Quốc sẽ luôn khiến họ có tầm vóc lớn hơn các nước khác.

Sự lo lắng đi kèm

Mặc dù Trung Quốc chi phối khu vực trong cái được nhìn nhận là phạm vi ảnh hưởng kinh tế của họ, nhưng nhìn chung điều này không được đón nhận nồng nhiệt. Hơn 70% số người nhận định Trung Quốc là bên tham gia kinh tế có ảnh hưởng nhất không cảm thấy thoải mái với điều đó. Phản ứng này trái ngược hẳn với quan điểm của những người nhận định rằng Mỹ có ảnh hưởng kinh tế lớn nhất khi mà 70% số họ hoan nghênh điều này. Trong số những người cho rằng ASEAN có ảnh hưởng lớn nhất, tỷ lệ người hoan nghênh điều đó thậm chí còn cao hơn (84%). Tuy nhiên, nên nhớ rằng con số tuyệt đối trong trường hợp của cả Mỹ lẫn ASEAN đều nhỏ hơn nhiều.

Sự lo lắng về Trung Quốc cũng xuất hiện trong một loạt câu hỏi khác liên quan đến chương trình đặc trưng của Trung Quốc - BRI. Trong khi hầu hết, nếu không nói là toàn bộ, 10 nước thành viên ASEAN đều hoan nghênh BRI, thì chỉ đa số những người tham gia khảo sát đến từ 7 nước hầu như không tin tưởng vào những đảm bảo của Bắc Kinh về một thỏa thuận công bằng hơn cho họ. Trong Diễn đàn “Vành đai và Con đường” lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kinh hồi tháng 4/2019 với sự tham gia của 10 nước ASEAN, Trung Quốc cam kết áp dụng một cách tiếp cận mới mà sẽ giúp dự án này trở nên “cởi mở, xanh và sạch” nhưng nhiều người không xem trọng điều đó. Việt Nam, Philippines và Indonesia là những nước hoài nghi nhất triển vọng về một thỏa thuận tốt đẹp hơn. Ở Myanmar, nơi đón tiếp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong chuyến thăm cấp nhà nước của ông vào tháng 1/2020 và khởi động lại 3 dự án lớn trong khuôn khổ BRI, trên 60% số người tham gia khảo sát hầu như không tin tưởng vào kế hoạch này. Ngay cả câu trả lời của những người tham gia khảo sát đến từ Campuchia, một trong những đối tác thân thiết nhất của Trung Quốc trong khu vực, cũng chỉ tích cực hơn ở một mức độ nào đó. Brunei là nước duy nhất có thái độ tích cực trước những đảm bảo của Trung Quốc về BRI, trong khi ở Lào và Singapore, tỷ lệ người tham gia khảo sát có câu trả lời tích cực/tiêu cực là 50-50.

Trung Quốc có thể không hành động vì lợi ích chung

Đâu là nguyên nhân dẫn tới thái độ thận trọng này đối với Trung Quốc? Có lẽ điều này liên quan đến nhận thức về thái độ của Trung Quốc đối với các vấn đề lợi ích chung như hòa bình, sự thịnh vượng và quản trị toàn cầu. Khi trả lời câu hỏi này, chỉ có 16% số người tham gia khảo sát tin tưởng rằng Trung Quốc sẽ hành động vì lợi ích chung, trong khi đó hơn 60% hầu như không tin tưởng. Số người không tin tưởng đã tăng lên trong năm qua; trong cuộc khảo sát năm 2019, tỷ lệ này chỉ là 50%. Hơn một nửa số người nghi ngờ Trung Quốc cho rằng nước này có thể lợi dụng sức mạnh kinh tế và quân sự của mình để chống lại chủ quyền và lợi ích của đất nước họ. 19% đơn giản cho rằng Trung Quốc không phải là một cường quốc đáng tin cậy.

Nghiên cứu kỹ lưỡng hơn những câu trả lời ở cấp quốc gia cho thấy số người có thái độ bi quan chiếm đa số ở tất cả các nước ngoại trừ Brunei và Lào. Không bất ngờ khi số lượng người có thái độ bi quan nhiều nhất là ở các nước có một số sự cố căng thẳng trên biển với các tàu của Trung Quốc trong những năm gần đây, cụ thể là Philippines, Việt Nam và Indonesia.

Kết quả khảo sát cũng có sự phân chia theo độ tuổi – những người trẻ có thái độ hoài nghi hơn về Trung Quốc so với người già. Chỉ có 10% số người sinh sau năm 1980 tin tưởng vào Trung Quốc; tỷ lệ này ở nhóm sinh trước năm 1980 là 22%. Trái lại, 65% giới trẻ hầu như không tin tưởng Trung Quốc; tỷ lệ này ở nhóm người cao tuổi là 55%. Không dễ giải thích sự phân chia quan điểm này nhưng có thể là người già hiện nay có cái nhìn thiện cảm hơn về Trung Quốc so với trước đây khi Trung Quốc trong ký ức của họ hiếu chiến hơn và ít hòa nhập hơn. Nếu sự phân chia theo độ tuổi này tiếp tục diễn ra, thì những quan ngại về Trung Quốc có khả năng sẽ tồn tại dai dẳng và thậm chí còn gia tăng theo thời gian.

Vậy khu vực này sẽ tìm đến ai để đạt được những lợi ích chung? Cuộc khảo sát cho thấy có thêm nhiều người trông mong Nhật Bản và EU sẽ bảo vệ thương mại tự do. Hai nước này là lựa chọn hàng đầu của hơn một nửa số người tham gia khảo sát, với tỷ lệ bình chọn ngang nhau. Trung Quốc và Mỹ xếp sau, với tỷ lệ bình chọn của mỗi nước là 15%. Mỹ hành động hiệu quả hơn trong việc duy trì trật tự dựa trên quy tắc và luật pháp quốc tế.

Không phải mọi niềm tin đều mất

Phải chăng Trung Quốc đã đánh mất niềm tin của Đông Nam Á? Nếu xem xét vấn đề trong trung hạn và dài hạn thì câu trả lời là không. Trên thực tế, có một vài phát hiện thú vị từ cuộc khảo sát cho thấy Trung Quốc có thể xây dựng niềm tin ở những người hoài nghi.

Một điểm sáng đối với Trung Quốc là có thêm nhiều người tham gia khảo sát nhận thấy quan hệ giữa các nước với Trung Quốc đang vận động theo chiều hướng đi lên chứ không phải đi xuống. Nhìn chung, số người có cái nhìn tích cực lớn hơn số người có quan điểm tiêu cực với tỷ lệ 2:1. Một lượng lớn lựa chọn câu trả lời trung lập, chứng tỏ họ vẫn có thái độ cởi mở và chờ xem tình hình sẽ diễn biến ra sao. Ở cấp quốc gia, chỉ có Việt Nam và Philippines mới có số người có thái độ bi quan lớn hơn số người có thái độ lạc quan.

Chủ nghĩa thực dụng cũng được thể hiện trong câu hỏi về việc lựa chọn các nhà phát triển 5G; trong đó, các công ty Trung Quốc chỉ đứng sau tập đoàn Samsung của Hàn Quốc và đứng trước các công ty đến từ châu Âu và Mỹ. Quyết định gần đây của Anh cho phép Huawei tham gia một phần trong hệ thống 5G tương lai của nước này báo hiệu thái độ cởi mở của nước này đối với Trung Quốc cho dù London có quan hệ thân thiết với Washington. Sự cởi mở này là cơ sở để Trung Quốc có thể lấy lại niềm tin của các nước.

Những câu trả lời cho câu hỏi tiếp theo cho thấy vấn đề được quan tâm nhất đối với nhóm có thái độ bi quan chính là giải pháp hòa bình cho các tranh chấp lãnh thổ dựa trên luật pháp quốc tế và sự tôn trọng của Trung Quốc đối với chủ quyền và các lựa chọn chính sách đối ngoại của các nước khác. Việc Trung Quốc gia tăng ưu thế kinh tế và tăng cường sử dụng các chiến thuật bạo lực ở Biển Đông hay khu vực sông Mekong có thể khiến thái độ của những người lạc quan đối với nước này trở nên gay gắt. Một dấu hiệu tích cực khác đối với Trung Quốc là giả thiết cho rằng sẽ có thêm nhiều người ở 5 nước ASEAN lựa chọn Trung Quốc thay vì Mỹ nếu họ phải chọn lựa. Tuy nhiên, điều này không còn quan trọng khi hơn 90% số người tham gia khảo sát không lựa chọn bên nào cả.

Kết luận

Trung Quốc có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các nước thành viên ASEAN vì sức mạnh kinh tế của họ đã được nhiều người công nhận. Xét ở một số phương diện, nhận thức này chi phối tình hình thực tế ở khu vực, nhưng chắc chắn là Trung Quốc đang nhanh chóng bắt kịp xu thế và tạo được đà cho mình. Với việc các dự án lớn của Trung Quốc ở Malaysia và Myanmar được khởi động lại, và quan hệ của Trung Quốc với Philippines dưới thời Chính quyền Duterte được cải thiện, ảnh hưởng kinh tế của Bắc Kinh dường như chắc chắn sẽ gia tăng hơn nữa.

Trái ngược với quan điểm lạc quan này, niềm tin của khu vực vào Trung Quốc đã suy giảm trong một vài năm qua, nhất là năm 2019. Nguyên nhân có lẽ là các tranh chấp đã xảy ra và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông và vùng lân cận, bao gồm các sự cố trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, Philippines và có lẽ là cả Malaysia. Sự suy giảm niềm tin đối với Trung Quốc dường như không liên quan đến các quan điểm và hành động gần đây của Mỹ, vì Mỹ cũng không nhận được sự tin tưởng cao độ trong một vài năm qua.

Quan điểm của Đông Nam Á cho thấy mặc dù Trung Quốc có thể sử dụng một số quân bài để khôi phục hình ảnh của mình, nhưng họ cần phải thận trọng khi làm vậy. Cụ thể, họ phải tránh tỏ ra quá áp đảo và đe dọa các lợi ích liên quan đến chủ quyền của các nước ASEAN. Các nước ASEAN mong muốn có cơ hội lựa chọn con đường riêng và làm chủ vận mệnh của chính mình. Họ càng yên tâm về điều này, mối quan hệ của họ với Trung Quốc và các cường quốc khác càng có khả năng trở nên tốt đẹp hơn.

Giữa cuộc khủng hoảng COVID-19 hiện nay, Trung Quốc có cơ hội thể hiện một khía cạnh khác của chính mình trước thế giới. Hầu như không ai nghi ngờ việc Trung Quốc có khả năng huy động sức mạnh và nguồn lực khổng lồ của nhà nước để chiến đấu với dịch bệnh. Họ đã gây ấn tượng cho tất cả mọi người khi xây dựng thần tốc hai bệnh viện dã chiến công suất cao. Tuy nhiên, điều này không có gì mới – hầu hết mọi người đều đã ghi nhận điều này trong đợt bùng phát dịch SARS năm 2003. Điều tạo nên sự khác biệt thực sự là việc chứng tỏ sự cởi mở và linh hoạt trong việc xử lý cuộc khủng hoảng lần này. Cho đến nay, thành tích trong việc xử lý khủng hoảng vẫn còn lẫn lộn. Vì đây là cuộc khủng hoảng chưa từng thấy và việc xử lý nó hết sức phức tạp, nên một thành công được cộng đồng trong và ngoài nước tán dương có khả năng sẽ giúp Trung Quốc có được sự tin tưởng sau tình hình hiện nay.

Choi Shing Kwok là Giám đốc Viện Nghiên cứu Yusof Ishak - ISEAS. Bài viết được đăng trên ISEAS

Minh Anh (gt)