Không có tài liệu nào phản ảnh một cách thích hợp vị thế chiến lược đầy mâu thuẫn của một siêu cường đang suy giảm và của một siêu cường đang lên bằng báo cáo thường niên về việc hiện đại hoá quân đội Trung Quốc của Bộ Quốc phòng Mỹ theo yêu cầu của Quốc hội. 


Lầu Năm Góc đã đưa ra một phiên bản mới nhất của bản báo cáo với tiêu đề "An ninh và phát triển quân sự liên quan đến Trung Quốc" vào ngày 20 tháng Tám. Bản báo cáo này được công bố gần như cùng lúc khi toàn cầu đều chạy hàng tin nóng rằng Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới. Tính trên thực tế, nền kinh tế Trung Quốc đã có được mức tăng trưởng trung bình hàng năm về tổng sản phẩm quốc nội ở mức 9% trong khoảng sáu năm qua, và được dự đoán là sẽ tiếp tục dành một phần tài sản này để chi phí cho việc hiện đại hoá quân đội. Bằng chứng là Trung Quốc đã quyết định xây dựng những tàu sân bay, được xem là biểu tượng vĩ đại nhất về khả năng quân sự và tiềm năng của một siêu cường. 


Mặc dù Trung Quốc hiện đang là một cường quốc kinh tế, nhưng sức mạnh quân sự của họ chắc chắn sẽ không sánh kịp với khả năng và sức mạnh của quân đội Mỹ. Trung Quốc biết rõ điều này. Đấy là lý do vì sao họ đang chi tiêu rất nhiều nguồn lực để phát triển kỹ thuật và khả năng "chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực", đặc biệt liên quan đến Đài Loan. Quan điểm của Trung Quốc dường như là, trong trường hợp xảy ra một tranh chấp quân sự liên quan đến Đài Loan, Trung Quốc sẽ gia tăng cơ hội chiến thắng nếu họ có thể thành công trong việc ngăn chặn sự can thiệp quân sự của Mỹ bằng cách sử dụng những kỹ thuật trên. Bắc Kinh cũng đang sử dụng rất nhiều nguồn lực để xây dựng những "biện pháp phản công" nhằm vô hiệu hoá những khả năng tăng cao bất tận của Mỹ trong việc phô trương sức mạnh ở những miền đất xa xôi. Bản báo cáo 2010 của Bộ Quốc phòng đã xem xét chi tiết những biện pháp này. 


Bắt đầu từ lần biểu dương nhằm gây ấn tượng của quân đội Mỹ trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc vào năm 1991, những tướng lĩnh hàng đầu của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) cũng như các nhà khoa học quốc phòng đã sử dụng rất nhiều nguồn lực để nghiên cứu chi tiết sự thống lĩnh trên không của Mỹ cũng như những kỹ thuật có sẵn từ những nguồn mở. Thêm vào đó, ngành tình báo của PLA và các cơ quan dân sự cũng bận rộn thu thập dữ liệu trong lĩnh vực sử dụng không gian của quân đội Mỹ. Trung Quốc hiểu được vai trò không thể thiếu của việc làm chủ không gian của Mỹ đối với sức mạnh quân sự của nước này nhằm giữ được sự thống trị hoàn toàn trong chiến tranh. 


Thứ hai, không quân đội của quốc gia nào chú tâm việc áp dụng "cuộc cách mạng quân sự" và số hóa chiến tranh vào khả năng tham chiến của mình bằng Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc đã đi xa hơn việc sử dụng chiến tranh thông tin trong lĩnh vực quốc phòng. Họ đã làm chủ được "phần mềm phá hoại" trong tình báo, đã được dùng để theo dõi những nhân vật chống đối người Tây Tạng. Phần mềm phá hoại được dùng để do thám quốc phòng cũng như trong lĩnh vực quân sự và tình báo. 


Mục đích của nó là để thu thập dữ liệu cũng như để phá huỷ những hệ thống máy tính của đối phương. Theo một nghiên cứu về lĩnh vực này, "rất ít cơ quan bên ngoài khu vực quốc phòng và tình báo có thể đứng vững trước một cuộc tấn công kiểu này. Với mối quan tâm cao của Trung Quốc trong lĩnh vực này, và với việc đây là một hệ thống kín, những đối thủ của nó (đặc biệt là những cơ quan của Chính phủ Mỹ) không chỉ phải luôn luôn cảnh giác trong việc xây dựng những hệ thống đối phó, mà còn không hề biết gì về khả năng mới nhất của những chuyên viên vi tính của phía Trung Quốc, những người có trách nhiệm vận hành những "chương trình đen" của nước này. 


Thứ ba, Trung Quốc cũng đang dùng những chuyên gia quốc phòng để nghiên cứu tất cả những cuộc thao diễn quân sự ở những nước láng giềng liên quan đến quân đội Mỹ - Nhật, Hàn Quốc, Ôxtrâylia và Ấn Độ. Kỹ thuật nghe trộm điện tử cũng có hiệu quả cao trong việc giúp Trung Quốc theo dõi những bước đi của Mỹ. Trong khía cạnh này, chiến lược "Chuỗi Ngọc trai" của Trung Quốc, một nỗ lực nhằm xây dựng những quan hệ với các nước chư hầu để bao vây Ấn Độ, còn chưa đem lại kết quả, trong ý nghĩa về việc cung cấp kho tàng tin tức tình báo về những hoạt động của hải quân các quốc gia đề cập ở trên. 


Thứ tư, khía cạnh gây ấn tượng nhất đối với PLA về khả năng tham chiến của quân đội Mỹ là bề ngoài linh hoạt để tiến hành những cuộc chiến có một không hai trong mỗi chiến dịch mà họ thực hiện kể từ Chiến dịch Bão táp Sa mạc, được xem như là "cuộc chiến tranh đầu tiên sử dụng cơ sở thông tin". Chiến lược được sử dụng trong chiến tranh Côxôvô. Chiến lược này chú trọng vào việc dần dần tăng cường ném bom mà không có sự đe dọa của các lực lượng trên bộ. Trong cuộc chiếm đóng Ápganixtan, Chiến dịch Tự do Bền vững ở Irắc, Mỹ đã áp dụng một cách độc đáo phương tiện thám thính của Lực lượng Đặc biệt để điều khiển những cuộc không tập vào lực lượng Taliban trên bộ, đồng thời cũng điều khiển lực lượng tấn công của bộ binh từ Liên minh phương Bắc của Ápganixtan. Trong Chiến dịch Tự do bền vững ở Irắc, Bộ Tư lệnh Trung tâm (CENTCOM) đã dùng phương pháp phổ thông chủ yếu dựa vào bộ binh làm mũi nhọn trong các chiến dịch. 


Sự khác biệt của chiến dịch này là việc chú trọng vào "học thuyết Powell" - sử dụng sức mạnh áp đảo - từng bị bỏ xó để ưu tiên cho phương pháp dùng quân tối thiểu. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld và cựu Tư lệnh CENTCOM, Tướng Tommy Frank, cho rằng họ đã có một ý tưởng tham chiến độc đáo bằng việc tạo ra chiến thuật "Cú sốc và Nỗi kinh hoàng" sử dụng tối thiểu lực lượng trên bộ. Đây chủ yếu là "lịch trình chuyển hoá" của Rumsfeld, người đã "vô cùng kinh ngạc khi khám phá ra rằng họ vẫn bám chặt vào việc dùng quá nhiều quân khi chuẩn bị cho các cuộc chiến lớn và vẫn mua sắm những hệ thống vũ khí cao cấp hơn là xây dựng những lực lượng nhỏ và nhanh nhẹn hơn được trang bị cho những điều kiện thực tế mà ông cho rằng họ sẽ đối diện." Trong nỗ lực nhằm sửa chữa phương pháp quen thuộc xưa cũ này, Rumsfeld và Franks có thể đã đi quá xa trong việc cắt giảm quân số. Tướng Anthony, người tiền nhiệm của ông Franks, ngay lập tức đã xác định quan điểm của mình bằng cách chỉ ra rằng "kế hoạch chiếm đóng Irắc của ông cần có thêm hai sư đoàn - không phải để chiến đấu mà để dùng trong quá trình được gọi là củng cố và khai thác vào cuối cuộc chiến." 


Tuy nhiên, ngay cả vũng lầy Irắc xảy ra sau khi Chính quyền Saddam Hussein sụp đổ cũng đã không tái lập được tầm quan trọng của việc Powell kiên quyết sử dụng chiến thuật "sức mạnh phủ đầu", rõ ràng nó đã loại bỏ lịch trình chuyển hoá của Rumsfeld về quy mô của quân số. Một trong những bài học chính mà quân đội Mỹ học được đó là họ phải chuẩn bị cho những điều kiện "hậu chiến" trước khi chiếm đóng một quốc gia nào. 


Những tướng lĩnh hàng đầu của PLA theo dõi những diễn biến trên với độ quan tâm cao và rút ra những bài học của riêng mình cho những trận chiến tương lai mà quân đội họ có thể đối diện. Bài học quan trọng nhất mà PLA rút ra từ quân đội Mỹ là không bao giờ chấm dứt việc nghiên cứu vai trò của thành tố thứ hai khi tham chiến. Vì Mỹ đã từng tham gia quá nhiều cuộc chiến tầm cỡ kể từ cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, không quân đội nào có thể tuyên bố rằng mình có nhiều kinh nghiệm hơn người Mỹ. Và bất kỳ quân đội nào muốn nằm ở điểm đỉnh trong lĩnh vực của mình mà không phải trả giá cho một cuộc chiến thực sự, sẽ học hỏi được rất nhiều khi tự trở thành một học trò chăm chỉ của những chiến dịch của Mỹ. 


Mỗi khi báo cáo của Lầu Năm Góc về quân đội Trung Quốc được đưa ra, ta có thể thấy được những vấn đề được lặp lại như sau: (1) Khi bản tài liệu được phát hành, nó chứa đựng một nhận định cơ bản rằng Trung Quốc vẫn đi theo lời khuyên của Đặng Tiểu Bình: "Lặng lẽ quan sát; giữ vững trận địa; Bình tĩnh ứng phó; Giấu mình chờ thời; Giỏi về phòng thủ và quyết không đi đầu”; (2) Vạch rõ quá trình hiện đại hoá của quân đội Trung Quốc, vốn vẫn là một trong những phân tích sâu sắc nhất trên thế giới về vấn đề này; (3) Nhấn mạnh các bước tiến của Trung Quốc trong lĩnh vực không gian để có những biện pháp chống lại những kẻ thù tiềm năng, những tiến bộ của Trung Quốc trong chiến tranh thông tin và điện tử, và đặc biệt là trong lĩnh vực chống xâm nhập khu vực. Quân đội Mỹ đã đúng khi kết luận rằng Trung Quốc có thể gây ra thiệt hại to lớn đối với những phương tiện không gian trong một cuộc đối đầu quân sự, và thiệt hại này chắc chắn sẽ xảy ra vào giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến; và (4) Họ chỉ trích Trung Quốc là không thành thật về mức chi tiêu quân sự và không minh bạch về mục đích thật sự của việc hiện đại hoá quân sự. Trong tiêu điểm cuối này, sự chỉ trích của Mỹ đã rất có hiệu quả, vì nó đang được các quốc gia Đông Á cũng như đối thủ chính của Trung Quốc là Ấn Độ theo dõi kỹ lưỡng. 


Phản ứng thường thấy của Trung Quốc đối với quan điểm của Mỹ trong việc hiện đại hoá quân sự của họ là coi chỉ trích của cường quốc duy nhất này là một cố gắng để kiềm chế họ. Phản ứng lại những gì được đưa ra trong báo cáo này, Đại tá Đại Từ của PLA trong một bài xã luận đã chỉ trích Mỹ là "đang siết cổ Trung Quốc một cách nhẹ nhàng." 


Thời điểm Lầu Năm Góc đưa ra báo cáo năm 2010 về quân sự của Trung Quốc là không đúng lúc vì quan hệ Mỹ- Trung Quốc đang trong giai đoạn lạnh lẽo, bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Obama với Đạtlai Lạtma cũng như quyết định của Mỹ trong việc bán vũ khí trị giá 6 tỉ USD cho Đài Loan. Trung Quốc đã phản ứng bằng cách đình chỉ mọi tiếp xúc quân sự giữa hai quốc gia. Chính quyền Obama đánh giá thái độ của Trung Quốc là "phản ứng thái quá" đối với những sự kiện này. 


Mỹ đang gặp khó khăn trong việc nhận thức rằng quan điểm của Trung Quốc về bản thân cũng như về siêu cường duy nhất hiện đang trải qua một chuyển biến rõ rệt. Kể từ khi Trung Quốc cho rằng siêu cường duy nhất này là một kẻ bá chủ đang suy thoái, và từ khi tự nhận mình là một cường quốc đang lên (thậm chí là một siêu cường tương lai), giới lãnh đạo hiện tại của Bắc Kinh cho rằng cường quốc này cũng phải đối xử thích hợp hơn với cường quốc mới. Khi Trung Quốc tạo điều kiện cho Mỹ trong những vấn đề kinh tế toàn cầu, thì Mỹ cũng phải hồi đáp trong những vấn đề hàng đầu như không nên bán vũ khí cho Đài Loan hoặc không chứng tỏ quan điểm bằng cách tiếp xúc với Đạtlai Lạtma. 


Quan điểm nhân nhượng là một tính chất căn bản của văn hoá Trung Quốc. Khổng Tử từng khuyên bảo học trò của mình rằng học thuyết ứng xử của ông "chỉ có một sợi chỉ đơn giản xuyên suốt" - "Trung thành và nhân nhượng, chỉ thế thôi." Ta cũng cần phải bổ sung nguyên tắc chủ yếu của Khổng giáo về học thuyết "Hạch tâm lợi ích" (lợi ích cốt lõi). Trong ngữ cảnh của triết lý phương Tây, lợi ích cốt lõi tương đương với những lợi ích cốt lõi mà không quốc gia nào có thể nhượng bộ. 


Đối với Trung Quốc, khái niệm này bao gồm, trước tiên và quan trọng nhất, là sự sống còn của hệ thống chính trị. Điều thứ hai là tính bất khả xâm phạm đối với chủ quyền lãnh thổ, hai nguyên tắc này gắn bó chặt chẽ với quá khứ đầy cay đắng của đất nước mà họ thường gọi là "thế kỷ bị sỉ nhục." Lợi ích cốt lõi thứ ba của Trung Quốc là việc xây dựng vững chắc hệ thống xã hội và kinh tế. 

Điều thú vị cần lưu ý là khi Trung Quốc tiếp tục sự tăng trưởng kinh tế kỳ diệu của mình, dường như họ cũng bắt đầu quá trình kéo dài danh sách lợi ích cốt lõi của họ. Trong quá khứ, danh sách này chỉ bao gồm Đài Loan và Tây Tạng. Nhưng dạo sau này họ lại thêm cả biển Đông lợi ích cốt lõi. Vì trên thực tế, Trung Quốc không có xu hướng thương lượng những lợi ích cốt lõi "cũ", chắc chắn họ cũng có thái độ tương tự đối với vấn đề biển Đông. Có một sự khác biệt nghiêm trọng giữa lợi ích cốt lõi cũ và mới. 


Đối với một quốc gia chuyên than phiền về sự kiêu căng của chủ nghĩa đơn phương và "bá quyền" của Mỹ, quyết định của Trung Quốc về việc nâng cao tầm quan trọng của biển Đông như là lợi ích cốt lõi cũng đang tự bộc lộ thái độ ngạo mạn của nước này. Ta có thể nhận định một cách khách quan rằng ứng xử của Trung Quốc ít nhiều là một biểu hiện về cung cách của một siêu cường đang lên hoặc "học đòi". Tuy nhiên, thái độ kiêu ngạo này chỉ làm tăng thêm mối nghi ngờ của các quốc gia láng giềng Đông Á về mục đích thực sự của sự đi lên của Trung Quốc và đặc biệt là việc hiện đại hoá quân đội. 


Những người Mỹ theo đường lối cứng rắn trong vấn đề Trung Quốc đồng ý với khuynh hướng đơn phương của Chính quyền Bush thì không hài lòng với báo cáo của Lầu Năm Góc về việc xây dựng quân đội của Trung Quốc. Tuy nhiên, thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc đã trải qua một quá trình chuyển hóa rõ rệt trong nhiệm kỳ thứ hai của Bush, khi ông tuyệt vọng cần đến sự hợp tác của quốc gia này trong đàm phán sáu bên và đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế toàn cầu suy sụp 2008-2009. 


Nhưng ngay cả khi các quan chức Mỹ đã quay lại thái độ nhẹ nhàng hơn đối với Trung Quốc, thì tâm lý tranh đua vẫn được đặt lên hàng đầu đối với hầu hết những người theo dõi Trung Quốc ở Mỹ và những người theo dõi Mỹ ở Trung Quốc. 


Không như việc cạnh tranh giữa những siêu cường trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc cạnh tranh hiện nay giữa Bắc Kinh và Oasinhtơn không chủ yếu vì hệ tư tưởng (mặc dù chúng ta cần nhớ rằng trên thực tế Mỹ là một nền dân chủ tự do trong khi Trung Quốc là một hệ thống thiếu tự do với những đặc điểm nổi bật của một nền kinh tế tư bản). Cuộc chạy đua Trung-Mỹ là nhắm vào vị trí đứng đầu thế giới giữa siêu cường duy nhất, đang quyết tâm không chịu đánh mất vị trí hàng đầu của mình trong giai tầng các quốc gia, và một cường quốc đang lên, cũng quyết tâm để trở thành số một. 


Hai câu hỏi quan trọng cho thập niên thứ hai của Thế kỷ 21 là liệu Trung Quốc đã hài lòng khi có thể đứng ngang hàng với Mỹ? Và liệu Mỹ sẽ sẵn lòng chấp nhận Trung Quốc như một quốc gia ngang hàng với mình hay không? Một khía cạnh ngầm nhưng vô cùng quan trọng liên quan đến câu hỏi thứ hai là Mỹ nên sẵn sàng cho một tình huống khi Trung Quốc trở thành số một trong giai tầng các quốc gia trong khoảng một thập niên tới. 


Đây là những câu hỏi khó trả lời vì Mỹ chưa bao giờ có kẻ ngang hàng trong thời kỳ cực thịnh của Chiến tranh Lạnh. Liên Xô có thể được xem là ngang hàng với Mỹ về mặt sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng trong khía cạnh kinh tế, Cộng hoà Liên bang Xôviết chỉ là một nước thuộc Thế giới thứ ba. Ngược lại, Trung Quốc đã thay đổi toàn bộ khuôn mẫu Xôviết bằng cách trở thành một cường quốc kinh tế trước, rồi dùng sự giàu có của kinh tế để trở thành một siêu cường quân sự. 

 

Đấy có thể là lý do vì sao Mỹ luôn quan tâm đến việc đi lên của Trung Quốc. Một khi nền kinh tế của Trung Quốc vẫn khởi sắc như trong khoảng một thập niên gần đây, thì việc họ trở thành một siêu cường dường như là điều chắc chắn. 

 

Mặc dù sự cạnh tranh giữa hai phía tăng nhanh, dường như cả Mỹ lẫn Trung Quốc đề không có khuynh hướng tìm sự đối đầu với khả năng leo thang nhanh chóng. Cả hai, đặc biệt là Trung Quốc, sẽ mất mát rất nhiều nếu chiến tranh nổ ra giữa hai nước. Trung Quốc đã đạt được rất nhiều trong ba thập niên qua. Họ là "đối tác thương mại lớn nhất thế giới" Theo lời của Zheng Bijian, thuộc Diễn đàn Cải cách Trung Quốc, "Lựa chọn chiến lược quan trọng nhất mà Trung Quốc có được là việc đón nhận sự toàn cầu hoá kinh tế thay vì tách mình ra khỏi nó." Và họ đã không cho thấy chủ ý liều lĩnh với những thành tựu quan trọng này. Về tham vọng đối chọi nhau của hai quốc gia, quan hệ chung của hai phía "sẽ không bao giờ nồng ấm, nhưng rất có thể trở thành 'chuyên nghiệp'." 

 

Hy vọng tốt đẹp nhất đối với thế giới là sự hợp tác và mối quan hệ chiến lược đầy tính cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc luôn giữ nguyên trong tình trạng quản lý được và được mở ra cho việc nối lại tình hữu nghị một cách thường xuyên. 

 

Nguồn : Asia Sentinel; TTXVN