Trong một thập kỷ qua, các cuộc tranh luận thường tập trung vào sự nổi lên của một trật tự thế giới mới, trong đó “thế đơn cực” của Mỹ có thể được thay thế bằng những mối quan hệ cân bằng hơn giữa các nước lớn. Một trong những hình mẫu có thể nói đến là sự trở lại của tam giác Nga-Trung-Mỹ. Trên thực tế, thời điểm cho những sơ đồ địa chính trị kiểu như vậy đã qua. Hệ thống quốc tế đương đại quá phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau làm giảm đi sự cân bằng chiến lược cơ bản, những điều đã được cuộc khủng hoảng tài chính thế giới khẳng định. Chủ thể kế thừa có thể nhất cho sự thống trị toàn cầu của Mỹ không phải là “một trật tự thế giới đa cực” được các nước lớn thống trị, mà là một trật tự hai cực Trung-Mỹ. Trật tự này còn lâu mới giống như trật tự trong thời Chiến tranh Lạnh. Nó là dấu hiệu báo trước về một tam giác mới thời hậu hiện đại. “Đỉnh thứ ba của tam giác” sẽ không phải là Nga, mà là một hệ thống hữu hình và vô hình bao gồm các Nhà nước-Dân tộc, các thể chế đa phương và các chủ thể phi nhà nước.

Trung tâm nghiên cứu về Nga và Trung tâm nghiên cứu an ninh thuộc Viện quan hệ quốc tế Pháp (Ifri) trong số chuyên đề tháng 2/2010 đã đăng phân tích của Bobo Lo, Giám đốc chương trình nghiên cứu Nga và Trung Quốc thuộc Trung tâm cải cách châu Âu ở Luân Đôn (Anh). Bobo Lo từng phụ trách chương trình nghiên cứu về Nga và quan hệ Âu-Á tại Viện nghiên cứu tư vấn chiến lược Chatham House và được mời làm chuyên gia nghiên cứu thuộc Trung tâm Carnegie ở Mátxcơva. Các tác phẩm gần đây của ông là: “Trục lợi ích: Mátxcơva, Bắc Kinh và Địa chính trị mới”, do Chatham House và nhà xuất bản Viện Brookings ấn hành tháng 11/2008; “Vladimir Putin và Chính sách đối ngoại của Nga”, do Chatham House xuất bản năm 2003; “Chính sách đối ngoại của Nga trong kỷ nguyên hậu Xôviết: Thực tiễn, ảo ảnh và chuyện thần thoại”, do nhà xuất bản Palgrave Macmillan ấn hành năm 2002.

Giới thiệu

Khái niệm tam giác chiến lược, phổ biến trong thời Chiến tranh Lạnh, dường như đang có chiều hướng quay trở lại trong những năm vừa qua. Những thất bại của Chính quyền Bush về chính sách đối ngoại và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tạo ra những cuộc tranh luận về thời tàn của Mỹ và về sự dịch chuyển trọng tâm của thế giới sang châu Á. Sự nổi lên ngoạn mục của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua và sự hồi sinh của Nga dưới sự lãnh đạo của Vladimir Putin đã làm thức tỉnh hy vọng về một trật tự thế giới mới, trong đó các mối quan hệ bình đẳng và linh hoạt hơn giữa các nước lớn có thể sẽ thay thế “trật tự đơn cực” của Mỹ. Một trong những mô hình có thể đề cập là một tam giác mới Nga-Trung-Mỹ.

Ba nước này dường như là những đối tác đương nhiên. Trước hết, có vẻ như lôgích khi cường quốc hạt nhân đứng thứ hai thế giới (Nga) liên kết với một cường quốc kinh tế đang có đà tăng trưởng mạnh mẽ (Trung Quốc) nhằm làm đối trọng với siêu cường duy nhất (Mỹ). Hơn nữa, Mátxcơva và Bắc Kinh sẽ không chỉ giới hạn trong một liên minh song phương hạn hẹp, mà còn có tham vọng kết liên minh với cả Oasinhtơn-mỗi bên đều tìm cách gia tăng tối đa ảnh hưởng của họ bằng cách kết hợp khéo léo giữa các bên với nhau trong tam giác này.

Nhiều sự kiện lịch sử trước đây làm tăng thêm suy ngẫm về một tam giác chiến lược như vậy. Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (RPC) ra đời tháng 10/1949, ý tưởng về một tam giác liên quan đến Liên Xô trước đây (Nga hiện nay), Trung Quốc và Mỹ đã đóng vai trò quan trọng trong tính toán của những nhà hoạch định chính sách. Những năm 1970, với chuyến thăm lịch sử của Tổng thống Richard Nixon tới Trung Quốc (năm 1972), đã đánh dấu mốc son cho quan niệm về tam giác chiến lược này. Bất chấp việc tam giác này không bao giờ tìm lại được tầm quan trọng như vậy kể từ thời điểm đó, song thuật ngữ tam giác chiến lược vẫn thường được đề cập trong diễn văn của các nhà lãnh đạo các nước lớn.

Tuy nhiên, chuyên đề này sẽ bảo vệ ý tưởng rằng quan niệm về tam giác chiến lược đã thành dĩ vãng. Tầm quan trọng của nó đã bị phóng đại, kể cả trong thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay, tính hữu ích của tam giác như là một công cụ của sự hiểu biết về mối quan hệ giữa các nước lớn lại tỉ lệ nghịch với sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc thế giới thời gian tới. Bất chấp sự đổi mới của nền kinh tế Nga trong thập kỷ vừa qua, nước này vẫn nằm ở khu vực vành đai trong nhãn quan về thế giới của các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ. Tam giác được tạo lập bởi Nga, Trung Quốc và Mỹ có thể sẽ không còn là một ký ức giản đơn.

Điều đó đặt ra vấn đề là liệu mô hình nào sẽ thay thế tam giác này. Chủ thể kế thừa có khả năng nhất cho sự thống trị toàn cầu của Mỹ không phải là một “trật tự thế giới đa cực” do các nước lớn thống trị, mà là một trật tự hai cực Trung-Mỹ. Nó sẽ không phải là thế hai cực của thời Chiến tranh Lạnh, mà rốt cuộc, các vấn đề quốc tế sẽ do hai cường quốc lớn thống trị, được ủng hộ hoặc gây khó khăn bởi các cường quốc hạng hai và các thể chế quốc tế. Theo thời gian, một tam giác mới có thể sẽ xuất hiện mang những đặc trưng của thời hậu hiện đại. Trái với các chủ thể trước đó, “đỉnh thứ ba” của tam giác này sẽ không phải là một nước lớn riêng lẻ, mà có thể là một hệ thống hữu hình và vô hình, bao gồm các Nhà nước-Dân tộc, các tổ chức đa phương và các chủ thể phi nhà nước.

Bản chất của tam giác chiến lược

Điều quan trọng cần xác định rõ những gì chúng ta hiểu về tam giác chiến lược. Thuật ngữ “chiến lược” vượt lên trên những năng lực quân sự hạt nhân thuần túy và đặc trưng của chúng (tư thế, răn đe…). Trước hết, thuật ngữ này phản ánh ảnh hưởng toàn cầu của một nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Một kho vũ khí hạt nhân chắc chắn là một át chủ bài chiến lược, song nó cũng thể hiện quyền lực chính trị quốc tế, sức mạnh kinh tế, thành tựu công nghệ hay ảnh hưởng về các giá trị văn hóa và chuẩn mực. Đức và Nhật Bản không sở hữu vũ khí hạt nhân, song tác động chiến lược của họ đối với thế giới là không thể tranh cãi. Thậm chí, người ta có thể khẳng định rằng hiện họ có ảnh hưởng hơn cả Nga, từng bị gạt sang bên lề trong các lĩnh vực ra quyết định của thế giới, nhất là tại Hội nghị thượng đỉnh G20.

Khi người ta bàn đến chuyện mục đích và ưu tiên, thuật ngữ “chiến lược” liên quan đến các quan niệm về “cấu trúc”, “chủ yếu”, và “dài hạn”, trái ngược với quan niệm về “chiến thuật”, thể hiện những đánh giá trong ngắn hạn, phần nhiều mang tính cơ hội, tình huống. Từ “chiến lược” cho thấy một tư duy kế hoạch hóa dài hạn, khác với các chính sách phản ứng và xử lý theo vụ việc. Thuật ngữ này cũng nhấn mạnh đến địa vị riêng của các mối quan hệ giữa các chủ thể. Ví dụ, Nga tuyên bố một cách hệ thống rằng họ duy trì các mối quan hệ “chiến lược” với Trung Quốc, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU). Dù được sử dụng thường xuyên, song thuật ngữ này đã bị hiểu sai, nó có thể được dùng để làm “chỉ dấu thăm dò” mối quan hệ song phương. Hơn nữa, từ “chiến lược” - nhưng không phải là “mối quan hệ đối tác chiến lược” - chắc chắn là một từ thích đáng nhằm chỉ rõ sự tương tác rõ ràng hiện có giữa Mỹ và Trung Quốc, Mỹ và Nga, Nga và Trung Quốc.

Tương tự, ý tưởng về tam giác chiến lược vượt qua mối quan hệ hạt nhân tay ba. Trên thực tế, tam giác hạt nhân Nga-Trung-Mỹ mất cân bằng, do sự không tương xứng về năng lực hạt nhân giữa một bên là hai cường quốc hạt nhân và bên kia là Trung Quốc. Khi Tổng thống Richard Nixon và Cố vấn an ninh quốc gia của ông, Henry Kissinger xây dựng tam giác chiến lược, họ đã có một dự án lớn hơn trong đầu: một tam giác hướng tới sự cân bằng giữa các nước lớn và các tính toán địa chính trị theo nghĩa rộng.

Hầu như toàn bộ các tam giác là ảo hơn là thực, và ít mang tính chiến lược. Ví dụ, Nga mong muốn khai thác “con bài Trung Quốc” trong mối quan hệ của họ với phương Tây, đồng thời duy trì mối quan hệ với Nhật Bản, Ấn Độ hay Mỹ để làm đối trọng trước sự nổi lên của Trung Quốc, và các mối quan hệ của Nga với châu Âu để ngăn chặn ảnh hưởng của siêu cường Mỹ. Đó chỉ là những dự án chết yểu, ngây ngô và phi thực tế. Một quan hệ tam giác thích đáng cần phải có ba bên, đủ sức mạnh và gắn bó mật thiết sao cho có thể gây ảnh hưởng lẫn nhau một cách có ý nghĩa. Trong hệ thống quốc tế đương đại, dạng tam giác này không tồn tại.

Tiến trình của quan hệ tam giác Nga-Trung-Mỹ

Tam giác chiến lược giữa Nga, Trung Quốc và Mỹ khởi đầu bằng quyết định của Mao Trạch Đông vào năm 1949, “ngả sang” Liên Xô và chống lại Mỹ. Sự lựa chọn của Mao, về mặt hệ tư tưởng và lịch sử, phản ánh tình bằng hữu trong mối quan hệ giữa các Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, động cơ chính lại liên quan đến vấn đề thực tế. Sự phụ thuộc của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào nền kinh tế Xôviết và vào sự hỗ trợ quân sự của họ, cũng như việc thiếu vắng nước bảo trợ thay thế khiến Trung Quốc có ít sự lựa chọn. Tiếp đến là chiến tranh Triều Tiên và hành động can thiệp quân sự của Trung Quốc, vì Bình Nhưỡng đã kéo Trung Quốc và Mỹ thù địch lẫn nhau trong hai thập kỷ sau đó.

Tuy nhiên, sự đối đầu chiến lược Trung-Mỹ không thể hiện mối quan hệ tam giác vận hành giữa Mátxcơva, Bắc Kinh và Oasinhtơn. Ít nhất có ba lý do cho phép giải thích điều đó. Đầu tiên, trong thời Chiến tranh Lạnh, quan hệ chính trị chủ yếu tập trung vào thế hai cực Mỹ-Xô. Sự mất cân bằng đáng kể về năng lực chính trị-quân sự giữa hai siêu cường và các cường quốc khác, cho thấy sự thiếu vắng điều kiện chính để tạo nên một tam giác chiến lược: sự tồn tại của một bên có ảnh hưởng thứ ba.

Thứ hai, điểm yếu sâu sắc của Trung Quốc - sau một “thế kỷ nhục nhã” dưới sự đô hộ của các cường quốc bên ngoài (kéo dài từ cuối ‘cuộc chiến thuốc phiện’ đầu tiên năm 1842 đến khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong suốt thời kỳ này, Trung Quốc chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự xâm lược của nước ngoài, từ cuộc nội chiến và các thảm họa kinh tế, xã hội, tự nhiên) – đã khiến họ ít có điều kiện thực thi một chính sách đối ngoại quyết đoán. Mối quan tâm chính của Mao thực sự là các vấn đề trong nước, được hiểu là củng cố chính phủ Cộng sản, xây dựng lại nền kinh tế bị tàn phá qua hàng thập kỷ nội chiến và bị Nhật Bản chiếm đóng, đồng thời tạo dựng lại các mối quan hệ xã hội. Mao không muốn cũng như không có phương tiện để làm một đối tác chiến lược tích cực của Liên Xô chống lại Mỹ. Ngay trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Trung Quốc thậm chí đã hành động vì những lợi ích riêng - những lo lắng an ninh về sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Đông Bắc Á, mối quan hệ mật thiết về hệ tư tưởng với chế độ của Kim Nhật Thành - hơn là vì những lợi ích của Mátxcơva.

Thứ ba, ngay cả trong thời kỳ quan hệ vàng son của họ, các mối quan hệ Trung-Xô là rất phức tạp. Trong khi Trung Quốc phụ thuộc vào sự trợ giúp của Liên Xô để xây dựng lại đất nước, thì những căng thẳng chính trị trầm trọng vẫn nổi lên giữa Mátxcơva và Bắc Kinh. Những căng thẳng này trở nên nghiêm trọng vào cuối những năm 1950, lên đến đỉnh điểm vào năm 1960 với quyết định của lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrouchtchev rút 1390 chuyên gia Liên Xô khỏi Trung Quốc. Sự ngờ vực của Trung Quốc về động cơ của Liên Xô và sự coi thường của Liên Xô đối với nước này, được xem là lạc hậu (và phụ bạc), đã gây tổn hại tới khả năng phối hợp chiến lược có hiệu quả chống lại Mỹ.

Vì những mâu thuẫn, quan hệ tam giác này thậm chí chỉ được xem là một gợi ý mang tính lý thuyết nhiều hơn là thực tiễn trong hai thập kỷ đầu tiên kể từ khi ra đời nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong trường hợp một tam giác chiến lược không bao giờ tồn tại, thì nó tạo thành những cực đối kháng: trong phần lớn thời gian thuộc giai đoạn này, Trung Quốc, Nga và Mỹ đã tỏ rõ sự thù địch của mỗi bên chống lại các bên khác. Khả năng một bên có thể sử dụng một bên khác để gây sức ép với bên thứ ba dường như rất yếu.

Nixon và sự hồi sinh của tam giác

Tam giác này chỉ bắt đầu đi vào thực chất sau chuyến thăm của Nixon tới Trung Quốc tháng 2/1972. Chuyến thăm này đã đánh dấu một bước chuyển sâu sắc trong tư duy chiến lược của Mỹ. Dưới sức ép của cuộc chiến Việt Nam, việc gia tăng lượng vũ khí hạt nhân của Liên Xô và sức ép từ các cuộc biểu tình hòa bình ở Mỹ, Nixon muốn nắm bắt cơ hội để thay đổi tình hình bằng cuộc gặp gỡ với Mao. Tuy nhiên, Nixon hy vọng buộc Liên Xô phải cùng lúc giải quyết hai mặt trận, điều đó buộc Liên Xô phải nhượng bộ trên những hồ sơ quốc tế lớn, kể cả giảm sự ủng hộ của Liên Xô đối với Cộng sản Bắc Việt và sớm ký kết Hiệp ước cắt giảm vũ khí tấn công chiến lược (START). Nixon và Kissinger hiểu rằng Trung Quốc đã thay đổi thái độ đối với Mỹ. Các thảm họa từ cuộc Đại cách mạng văn hóa, sự leo thang căng thẳng Trung-Nga (với nhiều sự biến ở khu vực biên giới năm 1969) và nhu cầu của Trung Quốc thu hút đầu tư và công nghệ của phương Tây đã khiến Bắc Kinh chuyển từ chủ nghĩa biệt lập sang xu hướng hợp tác quốc tế rộng hơn.

Đầu thập niên 1970 đã đánh dấu đỉnh cao trong quan hệ tam giác này. Trên một số hồ sơ nhất định, sự xích lại gần trong quan hệ Trung-Mỹ rõ ràng đã làm chuyển hướng chính sách của Liên Xô theo hướng tích cực. Mátxcơva đã ngừng ngăn cản việc ký kết Hiệp ước START và tiếp đến đóng vai trò mang tính xây dựng trong việc phát triển một cơ cấu an ninh châu Âu (được quy định trong Hiệp định Helsinki năm 1975). Nhìn chung, các mối quan hệ Mỹ-Xô đã chuyển sang giai đoạn hòa dịu và dễ nhận biết hơn trong thập niên 1970: sự hòa hoãn. Sự hiện diện của một “con bài Trung Quốc” không chính thức dường như chứng minh sự tồn tại của một tam giác chiến lược, cho dù rất không cân xứng.

Tuy nhiên, dường như ảnh hưởng của tam giác này thời đó đã bị đề cao quá mức. Trước hết, tác động của việc xích lại gần trong quan hệ Trung-Mỹ đối với sự thay đổi thái độ của Liên Xô tỏ ra hạn chế. Nó đúng - trong một số điểm nhất định, trong việc kiểm soát vũ khí chiến lược và về an ninh châu Âu - với việc giảm số quân đồn trú ở khu vực biên giới phía Tây của Liên Xô. Tuy nhiên, nó đã không thể ngăn cản được những bước tiến của Bắc Việt trong cuộc chiến Việt Nam, và nó đã tạo thuận lợi cho chiến thắng của Hà Nội bằng hành động rút lui nhanh chóng của quân đội Mỹ. Với việc kết thúc chiến tranh, ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Dương đã tăng đáng kể, gây hại cho Trung Quốc và Mỹ. Mối quan hệ tương tác giữa Trung Quốc và Mỹ cũng đã thất bại trong việc phòng ngừa sự can thiệp của Liên Xô, dù đó là ở châu Phi, Mỹ Latinh hay muộn hơn là ở Ápganixtan. Trong khoảng thời gian đó, Liên Xô đã chính thức đạt được sự bình đẳng chiến lược sau Hiệp ước START.

Tiếp đến, mối quan hệ tam giác đã có thể góp phần điều chỉnh chính sách của Liên Xô đối với Mỹ, song không phải đối với Trung Quốc. Do vậy, việc giảm các lực lượng Xôviết ở châu Âu đã dẫn đến việc tái triển khai của họ ở khu vực biên giới Trung Quốc, nơi số quân của họ đã từng bước tăng, lên tới 45 sư đoàn vào năm 1980. Rõ ràng rằng sự căng thẳng giữa hai nước lần này không dẫn tới sự đối đầu quân sự sau các vụ xung đột năm 1969. Tuy nhiên, nguy cơ chiến tranh đã biến mất ở thời điểm Nixon viếng thăm Bắc Kinh.

Thứ ba, người ta có lý khi nghĩ rằng sự hòa hoãn Mỹ-Xô là không thể tránh khỏi. Sự hòa hoãn này có thể diễn ra muộn hơn, song tiến trình này đã bắt đầu trước chuyến thăm đầu tiên của Kissinger ở Trung Quốc tháng 7/1971. Các cuộc thương lượng về START đã diễn ra từ năm 1969 và sau khi đạt được thỏa thuận về phần lớn các điểm chính, một Hiệp ước đã được ký kết.

Sau cùng, tác động của mối quan hệ tam giác liên quan đến chính sách của Liên Xô tỏ ra không bền vững. Quyết định của Leonid Brejnev xâm lược Ápganixtan tháng 12/1979 đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hòa hoãn, đồng thời cho thấy ảnh hưởng suy yếu của “con bài Trung Quốc” trong các tính toán địa chính trị toàn cầu của Mátxcơva.

Tóm lại, tầm quan trọng của tam giác chiến lược trong Chiến tranh Lạnh bị hạn chế. Đó một phần là do ý thức phòng vệ của các bên trong quan hệ tam giác này. Mátxcơva đã tìm cách giảm thiểu những hậu quả của việc xích lại gần Trung-Mỹ, trong khi Oasinhtơn và Bắc Kinh tin tưởng là ngăn chặn được những tham vọng của Liên Xô. Tuy nhiên, lý do chính để nền ngoại giao tam giác không thể vận hành tốt hơn là do sự mất cân bằng về sức mạnh quân sự và ảnh hưởng quốc tế có lợi cho hai siêu cường. Là một “chú lùn chiến lược” trong một thế giới hai cực, Trung Quốc chỉ có ảnh hưởng trực tiếp không quá quan trọng. Sự xích lại gần trong quan hệ Trung-Mỹ đã khiến Mátxcơva thận trọng hơn trong cách tiếp cận thế giới của họ, song nó không tạo ra những thay đổi có ý nghĩa trong chính sách của Liên Xô như Trung Quốc và Mỹ mong muốn.

Enxin và lá bài Trung Quốc

Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã gióng lên hồi chuông báo tử cho quan hệ tam giác này và trong con mắt của một số nhà phân tích, là sự chấm dứt của chính chủ nghĩa hiện thực. Sự vươn tới của một nước Nga dân chủ song còn yếu, sự vượt trội rõ ràng của nước Mỹ trong tất cả các hồ sơ và một Trung Quốc đang tập trung hiện đại hóa trong nước đã khiến người ta tin rằng tương lai của nền chính trị quốc tế có thể sẽ là hợp tác hơn cạnh tranh.

Tuy nhiên, thập niên 1990 đã cho thấy sự khác lạ. Bất chấp việc Mỹ lợi dụng sự vượt trội chiến lược chưa từng thấy trong lịch sử của họ, ý tưởng về sự cân bằng địa chính trị vẫn còn rất phổ biến, nhất là trong Điện Cremli, đã gây thất vọng vì sự từ chối của Mỹ xem Nga như một “đối tác” bình đẳng”. Quan hệ tam giác đã ngày càng nhận được sự ủng hộ của giới tinh hoa chính trị, chịu cơn chấn động trước sự suy yếu chiến lược của Nga.

Trong suốt thập niên này, ý tưởng về một trật tự thế giới đa cực được nêu bật ở Nga, dựa trên ba nguyên tắc. Trước hết, một thế giới xoay quanh Mỹ không chỉ là hành động xúc phạm chống lại Nga, mà còn có hại cho những lợi ích quốc gia của Mỹ. Tiếp đến, Nga tỏ ra quá yếu để thách thức quyền bá chủ của Mỹ: vì thế Nga phải tạo phe cánh với các nước khác. Sau cùng, là cách tốt nhất để Nga trở lại trung tâm của tiến trình ra quyết định quốc tế, vừa làm cầu nối vừa làm đối trọng giữa Đông và Tây, đặc biệt giữa Trung Quốc và Mỹ.

Một lập luận như vậy đã dẫn Tổng thống Enxin và chính phủ của ông tăng cường những mối quan hệ với Bắc Kinh. Quyết định này một phần là do quyết tâm của cả hai phía nhằm giải quyết các vấn đề song phương gai góc: giảm những lo lắng gắn với việc phân định biên giới, quản lý dòng người nhập cư Trung Quốc ở vùng Viễn Đông của Nga và giữ cho tổ hợp quân sự-công nghiệp Nga đạt được các hợp đồng ở Trung Quốc. Tuy nhiên, động cơ quan trọng nhất được trông đợi là Trung Quốc có thể trở thành đối trọng chiến lược với quyền bá chủ của Mỹ. Do vậy, “trật tự thế giới đa cực trong thế kỷ 21” đã trở thành một phương tiện làm hồi sinh quan hệ tam giác, đồng thời có khả năng giúp rũ bỏ môi trường địa chính trị của thời Chiến tranh Lạnh.

Các mưu đồ của Nga dùng “con bài Trung Quốc” và khởi động lại quan hệ tam giác cho thấy một thất bại hoàn toàn. Bất chấp những mối quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện, Bắc Kinh đã từ chối đóng vai trò đối tác dễ gần trong “cuộc chơi lớn” của Chính quyền Enxin. Sự đảo ngược phần nào đã diễn ra: trong suốt thập kỷ này, các mối quan hệ kinh tế của Trung Quốc với Mỹ đã có bước đột phá ấn tượng, vượt xa so với những trao đổi còn khiêm tốn giữa Nga và Trung Quốc. Trong khoảng thời gian này, Nga đã dần dần xa lánh phương Tây khi không thể gây ảnh hưởng trong chính sách của phương Tây về những vấn đề chủ chốt như mở rộng NATO.

Sau cùng, quan hệ tam giác trong những năm 1990 phần lớn đã thất bại vì cùng những lý do như thập niên 1970 và 1980: các mối quan hệ không bình đẳng giữa ba bên. Bất chấp việc chủ thể yếu nhất không còn là Trung Quốc nữa, mà là Nga, điểm yếu cơ bản trong quan hệ tam giác vẫn còn nguyên. Đến cuối thế kỷ 20, sự vượt trội hơn hẳn của Mỹ, sự suy yếu về chiến lược và kinh tế của Nga và việc thiên về tăng trưởng của Trung Quốc hơn là sự cân bằng địa chính trị đã khiến người ta tin vào sự kết thúc của quan hệ tam giác chiến lược.

Đổi mới quan hệ tam giác

Trong những năm vừa qua, quan niệm về mối quan hệ tam giác lại nổi lên trong các phân tích về quan hệ quốc tế và đặc biệt là quan hệ giữa Nga, Trung Quốc và Mỹ. Sự trở lại này được gắn với nhận thức, từ mùa Thu năm 2008, rằng ba nước này đã trở nên bình đẳng hơn bao giờ hết. Qua việc quản lý đầy rủi ro và thảm họa trong cuộc chiến Irắc, Chính quyền Bush đã cho thấy hình ảnh một nước Mỹ bị suy yếu và bị dẫn dắt bởi những mưu đồ thiếu tính toán. Nga đã hưởng lợi từ việc giá dầu tăng cao, cùng với phong trào chống Mỹ ở châu Âu, và một NATO đang suy yếu và chia rẽ, với cảm giác chung rằng trung tâm của quyền lực thế giới đã dịch chuyển sang phương Đông. Lần đầu tiên kể từ năm 1991, Mátxcơva có thể đòi hỏi giữ một vai trò chủ đạo trong các vấn đề quốc tế.

Sự thay đổi ngoạn mục nhất là việc nổi lên mạnh mẽ của Trung Quốc được thể hiện bằng một chính sách đối ngoại quyết đoán hơn. Trong phần lớn thời gian của thập niên 1990, Bắc Kinh đã theo đuổi một cách tiếp cận thận trọng, chú tâm hầu như hoàn toàn vào các ưu tiên đối nội: hiện đại hóa kinh tế và quyết tâm thu phục, đưa Đài Loan trở về Đại lục. Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, Trung Quốc đã trở nên năng động hơn trên bình diện khu vực và đã thúc đẩy việc tìm kiếm các nguồn năng lượng và nguyên liệu. Đồng thời, họ đã tìm thêm các thị trường mới cho xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế tạo. Tuy nhiên, chỉ đến thời điểm chuyển giao thế kỷ, Trung Quốc mới bắt đầu mở rộng hoạt động đối ngoại và trở thành một thành viên thực sự có ảnh hưởng của cộng đồng quốc tế.

Với một nước Mỹ suy yếu, một nước Nga hồi sinh và một Trung Quốc ngày càng tự tin vào chính bản thân mình, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy các ý tưởng về quan hệ tam giác chiến lược đang quay trở lại. Để đánh giá độ tin cậy lẫn nhau, cần phải xác định trong chừng mực nào mà các chính sách đối ngoại của Mátxcơva, Bắc Kinh và Oasinhtơn trông cậy ở quan hệ tam giác.

Quan điểm của Mátxcơva

Chính sách đối ngoại của Nga có nhiều mục tiêu, song có một mục tiêu hàng đầu: đưa Nga trở lại vị thế của một nước lớn trên thế giới. Thực chất, đó là việc trở thành một chủ thể cần thiết trong quản lý các hồ sơ quốc tế chủ yếu, và là “siêu cường khu vực” trong không gian lợi ích “ưu tiên” của Nga (không gian hậu Xôviết). Đồng thời, Mátxcơva thừa nhận một phần rằng ảnh hưởng của Nga có những giới hạn nhất định: năng lực triển khai sức mạnh của họ không thể bằng Liên Xô trước đây, ngay cả lúc chủ thể này suy yếu.

Do vậy, nước Nga của Putin và Medvedev tìm kiếm quan hệ đối tác chiến lược có thể sẽ giúp họ ngăn cản vị thế bá chủ của Mỹ. Một thế giới trong đó sự vượt trội của Mỹ đang tỏ ra có vấn đề là thế giới mà ở đó cần thiết cho các cường quốc khác có thêm cơ hội hơn để bảo vệ lợi ích và tham vọng của họ. Như trong những năm 1990, mục tiêu của một trật tự thế giới đa cực che đậy khát vọng tăng cường ảnh hưởng của Nga. Thế đa cực không đơn thuần là một hình thức được sửa đổi từ thế hai cực (Mỹ chống lại phần còn lại của thế giới): đó phải là ý đồ tạo dựng một sự đồng thuận chiến lược thay thế trong đó Nga sẽ là một chủ thể vượt trội.

Giống như Enxin, Putin đã xác định Trung Quốc là đồng minh triển vọng nhất trong cuộc chơi này vì nhiều lý do. Trước hết, đó là việc Trung Quốc, nước mạnh nhất và có ảnh hưởng nhất trong số các đối tác tiềm năng, ngày càng tăng sức mạnh qua tiến trình hiện đại hóa và sự lột xác của họ để thành cường quốc thế giới.

Thứ hai, Trung Quốc là ứng cử viên có thể chấp nhận được nhất. EU còn quá thân và phụ thuộc vào Mỹ, quá chia rẽ và thiếu ý nghĩa trên bình diện chính trị để đóng một vai trò như vậy. Trong khi đó, Ấn Độ đã có thể được xem như một lựa chọn có thể có, song sự xích lại gần trong quan hệ giữa Niu Đêli và Oasinhtơn đã tạo ra khoảng cách đối với Nga trong ngắn hạn. Ngược lại, Trung Quốc chia sẻ với Nga một cách nhìn tiêu cực trước thái độ của Mỹ cũng như nhiều giá trị chung: Nhà nước mạnh, chủ nghĩa tư bản độc quyền và chống lại các tiêu chuẩn và cách làm của phương Tây. Sự đồng nhất quan điểm này đặc biệt hấp dẫn trong con mắt các nhà lãnh đạo Nga.

Thứ ba, tồn tại một lý do phòng vệ, được tóm tắt trong câu châm ngôn “thêm bạn, bớt thù”. Dù chắc chắn Trung Quốc không phải là một kẻ thù và một cuộc đối đầu Trung-Nga là không thể, Mátxcơva vẫn lo lắng về bước tiến nhanh và mạnh của Trung Quốc. “Quan hệ đối tác chiến lược” tự xưng để ngỏ khả năng giám sát, thậm chí điều tiết các tham vọng của Trung Quốc. Những nỗ lực chung được thực hiện trong sự điều tiết buôn bán qua biên giới đã cho phép tăng cường an ninh ở vùng Viễn Đông của Nga, trong khi sự tương tác trong Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) có thể giúp tháo gỡ những căng thẳng có thể xảy ra giữa Trung Quốc và Nga ở khu vực Trung Á.

Lập trường của Mátxcơva ủng hộ một trật tự thế giới đa cực và quan hệ tam giác được thúc đẩy bởi nhận thức về lợi ích chiến lược, mà không phải ý muốn của người Trung Quốc. Bất chấp việc Putin đã góp phần cải thiện cơ bản mối quan hệ song phương, thì tầm quan trọng của Trung Quốc trong con mắt của Nga vẫn còn là yếu tố chính không thay đổi kể từ thập niên 1990. Sự hữu ích của Trung Quốc có tính gián tiếp: họ giúp trở thành đối trọng với siêu cường Mỹ và giúp tăng cường vị thế của Nga trong mối quan hệ của Nga với Mỹ và châu Âu. Mátxcơva không tìm cách chia tách phương Tây cũng như định hình lại mối quan hệ này. Phương Tây tiếp tục đưa ra những điểm chính về việc tham khảo chiến lược, chính trị, kinh tế, công nghệ và văn hóa. Về dài hạn, theo quan điểm của Putin, Nga phải trở thành cực thứ ba trong thế giới mới nổi đa cực, hay đúng hơn là ba cực. Nga có thể giữ bản sắc chiến lược riêng có, “độc lập” và có thể góp phần giữ sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc, đồng thời vẫn là một đối tác chủ yếu và bình đẳng với cả hai. Việc cụ thể hóa một cách nhìn như vậy sẽ cho phép định hình tam giác chiến lược đúng với nguyên nghĩa của nó.

Tuy nhiên, nhiều trở ngại ngăn cản việc thực hiện những mong muốn này, quan trọng nhất là sự chuyển đổi của Trung Quốc thành một chủ thể quyết đoán trên bình diện khu vực và thế giới, và sự mất cân bằng gia tăng trong quan hệ Trung-Nga. Trong kịch bản xấu nhất với Mátxcơva, Nga có thể bị dồn ép đóng vai trò “đối tác thứ yếu” của Trung Quốc, Mỹ hay của cả hai nước nói trên. Vì những lý do về an ninh (sự lo ngại liên quan đến tương lai lâu dài của khu vực Viễn Đông thuộc Nga), về địa chính trị (sự thống trị của Trung Quốc ở Trung Á) và về tâm lý (sự thích ứng với một lập trường yếu thế bất thường), thì sự vượt trội của Trung Quốc được xem như thảm họa.

Hơn nữa, Mátxcơva thể hiện nỗi lo đối mặt với sự bảo đảm từ phía Mỹ sau khi Barack Obama lên cầm quyền. Ảnh hưởng suy yếu của Mỹ và sức mạnh của Nga rõ ràng đã tiêu tan kể từ cuối năm 2008, không chỉ vì sự thay đổi chính quyền ở Oasinhtơn, mà còn vì Nga đã phải đương đầu với những khó khăn thực sự. Do vậy, chiến thắng quân sự trước Grudia tháng 8/2008 đã dẫn tới sự cô lập về ngoại giao tiếp sau quyết định tai hại của Nga công nhận nền độc lập của Ápkhadia và Nam Ôxêtia. Vị thế tốt của Nga với tư cách là nhà cung cấp năng lượng ổn định ở châu Âu đã bị tổn hại nặng nề do cuộc xung đột khí đốt với Ucraina tháng 1/2009. Sau cùng, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã tác động mạnh tới Nga hơn là mọi nền kinh tế thế giới khác. Những sự kiện này đã làm băng hoại niềm tin của chính Nga và làm nổi lên một trật tự thế giới đa cực trong đó họ có thể sẽ đóng vai trò chính.

Sau cùng, thuyết ngả về phương Tây của giới tinh hoa ưu tú Nga tạo nên một trở ngại cơ bản đối với một nền ngoại giao tam giác thực sự. Xu hướng này sẽ vượt lên trên tính tương đồng lịch sử, văn minh hay ngôn ngữ. Trong khi Mátxcơva ca ngợi sự nổi lên của phương Đông, đặc biệt của Trung Quốc, thì họ tiếp tục đặt niềm tin vào sự kéo dài vai trò thống trị của phương Tây trên trường quốc tế. Những lợi ích sống còn của Nga gắn với phương Tây. Do những mối quan tâm hiện nay của Nga về chính sách đối ngoại hầu như liên quan đến phương Tây, rõ ràng không phải là một sự trùng hợp: ký kết một hiệp ước về cắt giảm vũ khí chiến lược với Oasinhtơn, củng cố vị thế thống trị của Nga trong không gian hậu Xôviết, củng cố vai trò của họ trong cấu trúc an ninh châu Âu, ngăn chặn sự mở rộng của NATO và triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa, tăng cường kiểm soát tập đoàn khí đốt Gazprom về xuất khẩu khí đốt và đường ống dẫn dầu sang phương Tây, đóng vai trò động lực cùng với Mỹ trong các cuộc thương lượng về hạt nhân Iran.

 (còn tiếp kỳ sau)./.