Hợp tác trên biển – nhưng vì mục tiêu gì?

Ở mục này, “cách tiếp cận chức năng”  cần được xem xét. Các nhà phê bình, những người không biết về các vấn đề thực chất nổi lên từ các lĩnh vực mà chúng tôi đang giải quyết, có xu hướng đưa ra những phê bình về các kết quả cuối cùng của các hoạt động của chúng tôi. Những lời nhận xét đó cho rằng những việc làm của chúng tôi là các biện pháp xây dựng lòng tin đầu tiên và trước hết trong khuôn mẫu cổ điển. Điều này là không đúng: ở Hội thảo lần thứ hai, khi lần đầu tiên những người tham gia tới từ toàn bộ khu vực trừ Campuchia bàn về các vấn đề Biển Đông thì không có sự tin tưởng giữa các nhóm tham gia, và cũng rất khó để có được điều đó. Nhưng có rất nhiều hình thức để xây dựng lòng tin: từ hình thức mang tính biểu tượng đơn thuần cho tới hình thức mang tính chức năng và thực tế cao. Chúng tôi quan tâm tới hình thức sau nhiều hơn và khuyến khích các chuyên gia xác định hình thức đó.

 

Không cần tổ chức một hội nghị của các nhà ngoại giao và các luật sư quốc tế để tìm kiếm các cơ hội hợp tác hoặc các lĩnh vực mà việc hợp tác chắc chắn là cần thiết. Vấn đề này tốt nhất là đặt ra cho các chuyên gia kỹ thuật trong các lĩnh vực liên quan. Ngay từ đầu để đảm bảo rằng chúng tôi sẽ có một buổi thảo luận độc lập về các vấn đề mà những bên liên quan không thể từ chối được, chúng tôi đã kêu gọi những người có trách nhiệm lựa chọn người tham gia (chúng tôi hầu như không có vai trò trong việc này) bao gồm cả các chuyên gia có liên quan. Tại Hội thảo lần thứ nhất, điều này tương đối dễ dàng. Vì chúng tôi đã xác định sáu lĩnh vực hợp tác tiềm năng hoặc nội dung sẽ được bàn bạc trong các hoạt động chung, nên rất dễ để phân bổ một vấn đề cho sáu nhà chức trách tham gia. Trước đây, tôi đã đề cập tới vai trò tiên phong của Philippines trong các vấn đề nghiên cứu khoa học biển và chỉ ra điều này xảy ra như thế nào. Tương tự với Các vấn đề luật pháp TWG – các luật sư từ Bộ Ngoại giao Thái Lan là các nhà lãnh đạo, và với sự nhất trí của các nước tham gia, Thái Lan đã tổ chức tất cả các cuộc họp của nhóm này.

 

Nhưng nhu cầu hợp tác này xuất phát từ đâu? Đối với các chuyên gia kỹ thuật, câu trả lời nằm ở ngay các hoạt động kỹ thuật. Đối với các nhà khoa học biển, việc khuyến khích nghiên cứu khoa học biển là hiển nhiên rất có giá trị, và nó cũng đòi hỏi cần có nhiều sự nghiên cứu hơn nữa. Nhưng ngay từ đầu, có thể nhận thấy sự phản đối mang tính chính trị đối với quan điểm cho rằng cần phải hợp tác; một vài lực lượng có xu hướng phản đối quan niệm rằng hợp tác mang tính chất bắt buộc - được quy định bởi các nghĩa vụ quốc tế. Cũng có thể xem xét nguồn gốc những quan điểm này, những quan điểm mà chắc chắn là không có ích trong những năm đầu tiên của sáng kiến hội thảo..

 

Vấn đề đầu tiên nằm ở bản chất của chủ quyền quốc gia, và ở quan điểm của nhiều nước về quyền và quan hệ với các nước khác, do đó mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ có liên quan tới mọi vấn đề. Đối với những ai tiếp cận chủ quyền như một khái niệm tuyệt đối, coi nó như là một khái niệm không thể bị chia cắt hoặc giảm bớt và cho phép chống cự lại bất kỳ sự tấn công nào, thì ý tưởng hợp tác chỉ là lựa chọn có tham gia hay không của mỗi quốc gia vì ý tưởng này vốn đã bị phản đối. Đối với những người như vậy, Điều khoản quan trọng nhất trong Hiến chương Liên hợp quốc là điều 2(7) – không quốc gia nào có thể can thiệp vào các vấn đề của các quốc gia khác, đặc biệt là các vấn đề thuộc về quyền tài phán nội bộ. Theo quan điểm của một vài người, rào cản gây ra bởi điều khoản này là rất lớn và mạnh mẽ, và không thể can thiệp vào được. Trước khi Công ước 1982 có hiệu lực, Luật Biển đã phản ánh quan điểm này. Trước khi học thuyết về thềm lục địa trở thành quy tắc của luật quốc tế, lãnh hải với phạm vi thông thường là ba hải lý thuộc chủ quyền quốc gia, và nhiều nước có xu hướng coi các phần lãnh hải này như là phần không thể thiếu của lãnh thổ quốc gia (quyền qua lại vô hại). Cơ sở cho học thuyết về thềm lục địa bao gồm khái niệm cho rằng phần  địa hình này là sự kéo dài tự nhiên của các lục địa - phần đất bị che phủ bởi nước – theo đó quốc gia có quyền đối với các phần đất này. Các quyền đó không có nghĩa là chủ quyền nhưng hoàn toàn là độc quyền và cố hữu.[1] Trong Công ước về Thềm lục địa năm 1958, quyền quốc gia về thăm dò hoặc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên không yêu cầu đưa ra tuyên bố hoặc yêu sách.

 

Đây là một khái niệm có tác động lớn, truyền đạt không chỉ là một quyền thông thường nhằm thực hiện và kiểm soát các hoạt động liên quan đến tài nguyên. Các đường ranh giới của thềm lục địa (hoặc phạm vi hướng ra biển) được xem như giống các đường hoạch định trên mặt đất. Luật pháp quốc tế chỉ ra rằng, miễn là không gây tổn hại to lớn nào đối với các hoạt động đánh bắt cá, vận tải đường biển và môi trường biển, các quốc gia có thể làm bất kỳ điều gì họ muốn ở thềm lục đia. Thực tế cũng có một ngoại lệ khi mỏ dầu hoặc khí gas nằm vắt qua đường ranh giới, theo đó có thể được khai thác cả từ hai nước. Thực tiễn ở các mỏ dầu đòi hỏi mức độ hợp tác cao nhất có thể được giữa các quốc gia liên quan và những công ty được cấp phép của các nước này. Dường như là có một quy định trong luật tập quán nghiêm cấm việc khai thác đơn phương đối với những mỏ dầu như vậy mà không có sự tham khảo ý kiến bên kia. Quy định này có hiệu lực nhờ vào tác dụng của một số điều khoản trong nhiều hiệp định ranh giới thềm lục địa, nhưng điều này cũng ảnh hưởng tương đối đến một số ít quốc gia..

 

Việc thay đổi khái niệm là do sự phát triển các khu đánh cá lớn, và sự gia tăng các phong trào vì môi trường trong những năm 1960 và 1970. Khi mọi quốc gia đều có khả năng đánh bắt hết số lượng cá, cùng với sự phát triển mạnh mẽ các tàu chở dầu và các mục đích sử dụng biển khác, thì khả năng dễ bị tổn thương của môi trường biển ngày càng rõ ràng. Hơn nữa, các khu đánh cá rộng lớn có nghĩa là các ngư dân không còn được tự do đánh cá ở bất kỳ đâu họ muốn nữa, và các vấn đề về các kho dự trữ nằm ở ranh giới giữa các khu đánh cá và giữa các vùng biển cả bắt đầu nảy sinh. Nói cách khác, nhiệm vụ quản lý biển trở thành một nhiệm vụ rất khó khăn, do đó đòi hỏi phải có xem xét cẩn thận các khu vực biển khác nhau cũng như quan tâm toàn bộ tới môi trường biển, hệ sinh thái dưới quyền tài phán quốc gia, bảo tồn đa dạng sinh học... Tuy nhiên, vấn đề là trong khi các hoạt động khai thác dầu và khí gas có thể được diễn ra ở các khu vực khác nhau của thềm lục địa ít nhiều cũng độc lập với các quốc gia khác(ngoại trừ các mỏ xuyên qua ranh giới thềm lục địa) thì việc khai thác tương tự không thể áp dụng với nguồn tài nguyên hữu sinh, môi trường và hệ sinh thái.

 

Điều này được áp dụng với cả biển kín và nửa kín hoặc ở nơi có các biển tiếp giáp với nhau. Việc quản lý đại dương ở Úc và New Zealand hoàn toàn không phải xét tới các quy tắc áp dụng cho các nước như ở Vịnh Thái Lan, Vịnh Ả rập, Biển Baltic, vùng Địa Trung Hải, Biển Bắc và vùng Caribê.

 

Nhiệm vụ quản lý này được phản ánh trong các điều khoản của Công ước Luật Biển. Các điều khoản này khuyến khích và trong một vài trường hợp kêu gọi hợp tác giữa các quốc gia láng giềng. Ví dụ như các điều khoản về quy chế của biển kín và nửa kín. Theo ý nghĩa của Điều 123 của Công ước, Biển Đông (và vịnh Thái Lan) là biển nửa kín, một sự khẳng định được các quan chức chính phủ của nhiều nước tranh cãi mạnh mẽ (các quan chức này không phải các chuyên gia kỹ thuật).[2] Tất nhiên, họ không muốn coi Biển Đông là biển nửa kín vì họ không muốn phải có nghĩa vụ hợp tác. Nhưng điều đó là bắt buộc. Từ “nên” rõ ràng minh chứng cho nghĩa vụ đó.

 

Giới thiệu luật quốc tế

 

Ở phần trên tôi đã đề cập tới việc đưa ra nhóm TWG về các vấn đề luật pháp vào năm 1995. Đó là một tiến triển quan trọng của Phương thức Hội thảo này. Cho đến nay, các cuộc tranh luận về hợp tác vẫn hoàn toàn mang tính kỹ thuật. Hiện nay đã có cơ hội để chuyển sang lĩnh vực chính sách. Rõ ràng rằng các vấn đề như chủ quyền và quyền tài phán sẽ không được tranh luận, nhưng các vấn đề khác thì vẫn có thể được thảo luận. Ví dụ, nếu có hợp tác trong các lĩnh vực như sinh thái, bảo vệ môi trường, an toàn trên biển… thì các vấn đề pháp lý sẽ nổi lên cùng với chi tiết việc hợp tác đó sẽ được thực hiện như thế nào. Do đó, nhóm TWG này sẽ nghiên cứu các vấn đề đó.

 

Tại Cuộc họp lần thứ 2 của nhóm TWG ở Pattaya, Thái Lan, ý tưởng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông đã được đưa ra. Công lao thuộc về Giáo sư Robert Beckman của Trường Đại học quốc gia Singapore và một đồng nghiệp tới từ Viện Chưởng Lý Singapore, hai người đã tập hợp một loạt các điều khoản từ các hiệp ước đã được áp dụng trong khu vực như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố 1971 về khu vực Hoà bình, Tự do và Trung lập (ZOPFAN), Hiệp ước ASEAN… Đối với Biển Đông, nếu các khái niệm này hiện nay còn tồn tại thì sẽ rất khó để phán đối các văn bản trên. Khi Bộ trưởng Ngoại giao Philippines quyết định thử và thúc đẩy bộ quy tắc ứng xử ở kênh chính thức, thì các đề xuất của ông đã được nêu trong bản dự thảo Pattaya. Vấn đề nổi lên chắc chắn khác với các kiến nghị được đưa ra trong các cuộc họp, nhưng chắc chắn rằng Phương thức Hội thảo đã có ảnh hưởng tới việc tranh luận bộ quy tắc ứng xử cho cả khu vực (so với các hiệp định song phương đơn thuần) và cả các công thức ít quan trọng hơn. Tất nhiên đây là điều chúng ta mong đợi – sự tự do ở Kênh 2 có thể mang lại những kết quả mà sau đó Kênh 1 có thể thông qua (hoặc lờ đi).

 

Nhưng nhóm TWG về các vấn đề luật pháp cũng cho chúng tôi cơ hội tranh luận về các vấn đề khác. Ví dụ, Robert Adamson, thành viên của nhóm nghiên cứu của tôi tại UBC, đã đưa ra một bài viết trong đó sử dụng cụm “không tổn hại” trong các hiệp định quốc tế. Các từ này chỉ đơn giản nghĩa là bất kỳ điều gì các bên đã đồng ý thực hiện trong quá khứ cũng đều không ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của họ dù dưới hình thức nào. Ví dụ điển hình là hàng loạt các hiệp định giữa Vương quốc Anh và Argentina liên quan tới hợp tác trên biển ở khu vực giữa Quần đảo Falkland (A: Falkland Islands – nd) và lục địa Nam Mỹ. Hai nước đã trải qua một cuộc chiến ngắn nhưng đầy khốc liệt khi phe quân sự ở Argentina muốn chiếm lấy quần đảo này từ người Anh bằng vũ lực: thương vong nặng nề và quan hệ căng thẳng. Tuy nhiên vì lợi ích từ nguồn tài nguyên, hai nước đã đồng ý hợp tác mà không gây tổn hại tới các tuyên bố của mỗi nước về chủ quyền đối với quần đảo.[3]

 

Vấn đề đặc biệt này rất quan trọng vì việc tranh luận trong bài viết của Adamson đã gợi ra một vài điều cho tôi. Đầu tiên, như tôi đã nghi ngờ, có sự khác biệt rất lớn trong kinh nghiệm (và cả trình độ) luật pháp của những người tham gia. Đây sẽ không phải là một vấn đề nếu các vấn đề được luận không nghiêm trọng, nhưng nếu nó thật sự nghiêm túc thì một vài người tham gia sẽ không theo kịp cuộc tranh luận. Họ sẽ không hiểu điều gì đang được tranh luận và có xu hướng bác bỏ vấn đề đó. Nói cách khác, những người tham gia cần phải có một trình độ về luật pháp nhất định và cần phải thu hẹp khoảng cách về trình độ giữa những người tham gia, đặc biệt liên quan tới việc hiểu biết luật gì hiệu quả hoặc không hiệu quả ở các nơi trên thế giới. Điều này đôi khi là rất khó bởi vì đối với những người này, phản ứng đầu tiên của họ thường là Biển Baltic là Biển Baltic, biển Địa Trung Hải là biển Địa Trung Hải và Biển Caribê là biển Caribê – các biển đó không phải là biển Đông. Và đôi khi các hình mẫu hóa ra lại chẳng là cả - nhưng đối khi các hình mẫu lại rất có ý nghĩa, và cần tìm những mô hình thích hợp, mang tính minh hoạ và bỏ qua các mô hình làm rối sự việc.

 

Những người tham gia dường như ngày càng thích sử dụng Nhóm làm việc không chính thức về Biển Đông ở UBC như một công cụ để mở rộng kiến thức nền. Tôi nhớ tới một cuộc họp nơi mà các quan chức cấp cao của Trung Quốc đề nghị chúng tôi sắp xếp một cuộc họp về khai thác chung dầu mỏ ngoài khơi, một đề tài được tranh luận rất nhiều vào hôm đầu tiên tôi gặp Đại sứ Djalal. Ông muốn biết chính xác các khu này hoạt động như thế nào. Các quyền và nghĩa vụ tương tự của các bên là gì? Ai là người tiến hành các hoạt động? Do đó, chúng tôi đã thiết lập một nhóm các chuyên gia về vấn đề rộng hơn việc khai thác dầu chung ở ngoài khơi, cụ thể là các khu hợp tác. Chúng tôi đã tổ chức cuộc họp này ở Vientiane, Lào, những người tham gia bao gồm các diễn giả mà sau đó tham gia vào các nhóm giảm khoảng cách phát triển giữa Úc và Indonesia Timor, nhóm phát triển chung của Malaysia và Thái Lan ở Vịnh Thái Lan, và nhóm nghiên cứu của tôi đã tập hợp các bản sao các hiệp ước và các tài liệu cho những người tham gia. Nói cách khác, chúng tôi đã đưa chủ đề này vào một cuộc điều tra chi tiết và nghiêm túc, mà sau đó tính thực tiễn và linh hoạt của khái niệm này đã rõ ràng hơn rất nhiều từ trước tới nay.

 

Hơn nữa, chúng tôi cũng có thể liên kết cách tiếp cận này với Đoạn 3 của Điều 74 và 83 của Công ước về Luật Biển, các điều khoản liên quan tới việc phân định biên giới trên biển. Đoạn 3 cho rằng khi không đạt được hiệp định về phân định biên giới, trên tinh thần hợp tác, các quốc gia liên quan nên đi đến “các hiệp định sơ bộ về tình trạng thực chất” trong thời gian chuyển tiếp. Hầu hết các khu vực khai thác chung đều có các vấn đề do các quốc gia liên quan không thể nhất trí về biên giới trên biển. Các vấn đề đó có các bộ quy tắc – chúng là các hiệp định sơ bộ và rõ ràng mang tính thực tế. Việc ủng hộ quan điểm này được minh chứng trong lịch sử hợp tác đánh cá và các hình thức hợp tác chung khác ở Đông và Đông Nam Á. Tôi không cần phải nói về uy tín của Phương thức Hội thảo này nữa, nhưng chúng tôi chắc chắn phải giúp minh họa cho các cách sử dụng của khái niệm này. Nói cách khác, đây không phải là một thủ tục khác thường với đầy nguy hiểm và khó khăn. Ngược lại, nó đưa các nguồn này vào hoạt động, nếu không thì các nguồn này có thể vẫn giữ nguyên như vậy, không được sử dụng trong một tương lai gần.

 

Trong các phiên họp về luật pháp, chúng tôi cũng tham gia vào một tiến trình mà tôi nghĩ như “việc xoá đi các tầng thấp” - một nội dung chủ đạo của cuộc tranh luận về vấn đề không tương thích hoặc không đúng. Ví dụ, việc khẳng định sự khác biệt giữa quần đảo và đảo nhân tạo, và việc tìm ra ra cách áp dụng Khổ 3 của Điều 121 của Công ước này đã thay đổi, một cách đầy tranh luận, bức tranh tài phán ở Biển Đông ở một mức độ nào đó. Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ một vài nước đã có thể tiến xa hơn nữa. Trong suốt những năm giữa thập kỷ 1990, đã có một giai đoạn trao đổi ngoại giao mở rộng giữa Philippines và Trung Quốc liên quan tới Đá Vành Khăn (A: Mischief Reef – nd). Cả hai bên đều tuyên bố đó là “một phần không thể nhân nhượng của lãnh thổ quốc gia”. Với tôi, điều đó dường như là họ có thể đạt được một điều gì đó họặc chỉ ra rằng đó không phải là lãnh thổ - nó là một đảo nhân tạo được xây trên một tảng đá ngầm, và không có ý nghĩa tài phán. Nói cách khác, theo như giáo sư Prescott, nếu như chúng ta áp dụng các quy tắc của Công ước này để đặt tên cho các loại địa hình ở Biển Đông bất chấp việc chúng được gọi là gì đi nữa thì cho đến nay số lượng các hòn đảo sẽ ít hơn rất nhiều. Trong số đó, có một số lượng lớn các hòn đảo được hình thành theo như ý nghĩa của Điều 121 Khổ 3 của Công ước này – chúng có thể có lãnh hải, nhưng không rộng hơn các vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa. Việc xây dựng ở các phần địa hình không bị chìm dưới mặt nước không thay đổi hiện trạng pháp lý của loại địa hình đó – nó vẫn là một đảo nhân tạo, là một khu vực được cho là an toàn (nhưng không có quyền tài phán) về biển đối với các mục đích khai thác tài nguyên), và có lẽ là điểm diễn tập quân sự ưu tiên đầu tiên.

 

Một câu hỏi hay được đặt ra đó là liệu các quốc gia ở Biển Đông có thể phát triển “một tập quán khu vực”, điều làm thay đổi các quy tắc của Công ước này về quần đảo và đảo nhân tạo hay không? Theo quan điểm của tôi, cộng đồng quốc tế sẽ bác bỏ một động thái như thế, vì nó có thể được áp dụng ở những nơi khác và sẽ mở ra một lời mời cho các quốc gia ven biển khác để củng cố và phát triển mọi tảng đá, do đó làm mất dần khái niệm tự do biển cả và vùng di sản chung của nhân loại. Phần biển chung toàn cầu chắc chắn sẽ bị lấn chiếm dần, và mục tiêu của Công ước về Luật Biển chính là để ngăn chặn điều này. Do đó, để thực tiễn này phát triển sẽ không phù hợp với các mục đích lớn hơn của Công ước và do đó sẽ đi ngược lại với Công ước. Hơn nữa, vì tầm quan trọng của các hệ thống đá ngầm ở Biển Đông ngày càng trở nên rõ rệt, nên cần phải kêu gọi dừng hoàn toàn việc xây dựng trên các tảng đá ngầm này vì nó không chỉ là một hành động khiêu khích tiềm tàng mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái. Nói cách khác, chúng ta có thể thấy một hệ quả khốc liệt là việc xây dựng trên các hệ thống đá ngầm không mang lại lợi ích gì trên phương diện quyền tài phán và gây ra những ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái biển và môi trường. Do đó, tham gia vào việc xây dựng này dường như là vô ích cho dù nó có vẻ hấp dẫn ở phương diện tuyên bố quyền tài phán quốc gia.

 

Cuối cùng, luật quốc tế hiện đại cho thấy nhiều đặc trưng của thuyết chức năng. Trên thế giới hiện nay, các cách tiếp cận đa dạng của các quốc gia có thể rất nguy hiểm và sai chức năng. Ví dụ như sự đa dạng trong áp dụng quy tắc kiểm soát giao thông hàng không – thì khi một quốc gia hành động như thế sẽ dẫn tới thảm hoạ. Các hiệp ước được ký kết để đóng vai trò là hình mẫu cho hành động lập pháp nội địa đã tạo ra nhiều vấn đề chưa từng có nhằm đảm bảo rằng các quốc gia thông qua các biện pháp chính xác cao. Nhu cầu về cách tiếp cận toàn cầu nảy sinh từ bản chất của vấn đề. Nó không phải là một trường hợp nghiên cứu để tìm ra điều bất biến vì lợi ích của nó.

 

Kết luận

 

Nhiều người cho rằng khả năng Phương thức Hội thảo này có thể tìm ra các cơ hội hợp tác biển hiệu quả và có giá trị đã tạo điều kiện cho hội thảo này đạt được động lực ở mỗi đỉnh cao của các hoạt động của hội thảo (trong một năm có tới tám cuộc họp). Nhưng rất quan trọng để hình thành giá trị của các kiến nghị này, và nhấn mạnh rằng chúng không phải là sự lựa chọn “tốt thứ hai” để thay thế cho điều lẽ ra đã có thể đạt được như vấn đề cơ bản ở Biển Đông – tranh chấp chủ quyền/quyền tài phán.

 

Các chuyên gia trong các lĩnh vực mà chúng tôi chọn để tập trung nghiên cứu đã có thái độ mạnh mẽ đối với sự cấp thiết của các biện pháp mà họ ủng hộ. Rất khó để biết như thế nào và tại sao các nguồn lực lại bị chệch hướng thay vì nỗ lực giải quyết tranh chấp chủ quyền, điều mà theo quan điểm của tôi là vô ích. Đó là bởi vì cách giải quyết như vậy đòi hỏi sự nhất trí của các quốc gia liên quan tham gia vào tiến trình hoà giải và tuân theo kết quả đạt được. Chưa từng đạt được một sự đồng thuận nào như thế. Ngược lại: các quan chức cấp cao của các quốc gia ven biển đã tuyên bố rằng bởi vì tuyên bố của đất nước họ vượt ngoài phạm vi cuộc tranh chấp, nên không cần phải bàn bạc, không bao giờ quan tâm tới việc kiện tụng.[4]

 

Khả năng phát hiện các lĩnh vực hợp tác hiệu quả, giá trị và cần thiết là thiết yếu và điều này chắc chắn là yêu cầu nếu các sáng kiến ngoại giao phòng ngừa được xem xét. Nhưng chúng tôi cũng có thể chỉ ra các nhân tố khác: cam kết của những người tham gia và quyền của họ trong Phương thức này; sự tham gia những trung gian, người có thể đưa ra thực trạng và ý kiến cho cuộc hội thoại; sự lãnh đạo nhiều kinh nghiệm, thông minh và kiên trì của TS. Djalal; việc phân bổ các quỹ. Cuối cùng, tôi nghĩ một khi những người tham gia đã không quan tâm tới các vấn đề mà họ được thông báo là “các vấn đề đang bị đe dọa” và thay vào đó tập trung vào các vấn đề được xác định ở đầu chương này, thì nhu cầu thiết yếu để tìm ra biện pháp giải quyết vấn đề ngày càng trở thành một mối quan tâm chung.

 

Phụ lục I Danh sách các cuộc họp theo chủ đề

 

Nghiên cứu khoa học biển

·  TWG 1 – Manila, Philippines, 1993

·  TWG 2 – Surabaya, Indonesia, 1993

·  TWG 3 – Singapore, 1994

·  TWG 4 – Hanoi, Vietnam, 1995

·  TWG 5 – Cebu, Philippines, 1996

·  TWG – Kiến nghị đa dạng sinh học, Cebu, Philippines, 1996

·  TWG – 6/GEM, Manila, Philippines, 1998

 

Bảo vệ môi trường biển

·  TWG 1 – Hàng Châu, Trung Quốc, 1994

·  GEM – Phnom Penh, Campuchia, 1997

·  TWG 2 – Hải Nam, Trung Quốc, 1997

·  GEM – Kiến nghị giám sát, Manila, Philippines, 1998

 

An toàn hàng hải, giao thông và thông tin liên lạc

· TWG 1 – Jakarta, Indonesia, 1995

· TWG 2 – Bandar Seri Bagawan, Brunei Darussalam, 1996

· GEM – Đào tạo thủy thủ, Singapore, 1997

· GEM 1 – Trao đổi dữ liệu và thông tin thủy văn, Kuching, Malaysia, 1997

· GEM – Trao đổi dữ liệu và thông tin thủy văn, Singapore, 1998

· TWG 3 – Singapore, 1998

· GEM – Tìm kiếm và cứu hộ và các hoạt động bất hợp pháp trên biển, Kota Kinabalu, Malaysia, tháng 6/1999

· GEM 2 – Trao đổi thông tin và dữ liệu thủy văn, Singapore, tháng 10/1998

 

TWG về Đánh giá tài nguyên và các phương thức phát triển

· TWG 1 – Jakarta, Indonesia, 1993

· GEM 1 – Các khu vực hợp tác, Viêng Chăn, Lào, 1998

· GEM – đánh giá nguồn hydrocacbon không phải khoáng sản, Jakarta, Indonesia, 1998

· GEM 2 – Các khu vực hợp tác, Bali, Indonesia, tháng 6/1999

 

Các vấn đề luật pháp (tổ chức ở Thái Lan)

· TWG 1 – Phuket, 1995;

· TWG 2 – Chiang Mai, 1997

· TWG 3 – Pattaya, 1998

· TWG 4 – Hua Hin, 1999

 

Các hội thảo về quản lý các xung đột tiềm tàng ở Biển Đông (tổ chức ở Indonesia)

· 1 – Bali, 1990,

· 2 – Bandung, 1991,

· 3 – Yogyakarta, 1992,

· 4 – Surabaya, 1993,

· 5 – Bukit Tinggi, 1994

· 6 – Balikpapan, 1995

· 7 – Batam, 1996

· 8 – Pacet Puncak, 1997

· 9 – Jakarta, 1998

· 10 – Bogor, 1999

· 11 – Cengkareng (cuộc họp tiếp theo ở Jakarta vào tháng 8) 2001

· 12 – Jakarta 2002

· 13 – Medan 2003

· 14 – Batam, 2004

· 15 – Anyer, Banten, 2005

· 16 – Bali, 2006

· 17 – Yogyakarta, 2007

· 18 – Menado, 2008

 

Phụ lục II Công ước Luật Biển – một số điều khoản

 

Điều 74 (và 83)

3. Đối với hiệp định chưa đạt được ở khổ 1, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, các quốc gia liên quan sẽ cố gắng để đạt được các hiệp định sơ bộ về nội dung thực tế, và trong giai đoạn chuyển giao này, không làm hại hoặc cản trở việc đạt được hiệp định cuối cùng. Các hiệp định này không được ảnh hưởng tới việc hoạch định biên giới cuối cùng.

 

Phần VIII, quy chế của các đảo

Điều 121 quy chế của các đảo

1 Một hòn đảo là một vùng đất được hình thành một cách tự nhiên, bao quanh bởi nước, và ở trên mặt nước khi thủy triều lên.

2 Trừ các khu vực được nêu ở khổ 3, theo các điều khoản của Công ước này, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của một hòn đảo thì tương xứng với các phần lãnh thổ khác.

3 Đá, nơi không thể duy trì sự sống của cong người hoặc có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.

 

Phần IX Biển kín và nửa kín

Điều 122 Định nghĩa

Theo như mục đích của Công ước này, “biển kín và nửa kín” nghĩa là vịnh, vịnh nhỏ hoặc biển bao quanh bởi hai quốc gia trở lên và nối với biển khác hoặc đại dương bởi một dòng nước hẹp hoặc bao gồm một phần hoặc toàn bộ lãnh hải và các vùng đặc quyền kinh tế của từ hai quốc gia ven biển trở lên.

 

Điều 123 Hợp tác của các quốc gia ven biển kín hoặc nửa kín

Các quốc gia ven biển kín hoặc nửa kín phải hợp tác với nhau theo quyền và nghĩa vụ theo như Công ước này. Để thực hiện được điều này, trực tiếp hoặc thông qua một tổ chức khu vực thích hợp, các quốc gia phải nỗ lực để:

(a) điều phối việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên hữu sinh ở biển;

(b) điều phối việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đồng thời tôn trọng việc bảo vệ và bảo tồn môi trường biển.

(c) điều phối các chính sách nghiên cứu khoa học và thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong khu vực.

(d) mời các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế quan tâm để hợp tác trong việc thúc đẩy các điều khoản này.

GS. Ian Townsend-Gault, Khoa Luật, Đại học British Columbia, Canada

Người dịch: Vũ Song Hà

Người hiệu đính: Lê Quang Hưng

HẾT

Bài viết trích trong " Security  and International Politics in the South China Sea",

Chủ biên: Sam Bateman, Ralf Ammers, năm 2009.

Bản gốc tiếng Anh " The contribution of the South China Sea Workshops: the importance of a functional approach"

Bản quyền thuộc NCBĐ


[1] Các quyền của quốc gia đối với các nguồn tài nguyên hữu sinh và vô sinh của EEZ và thềm lục địa là “các quyền chủ quyền cho mục đích” thăm dò và khai thác. Xem Công ước về thềm lục địa, Điều 2; Công ước về Luật Biển, Điều 56 (EEZ) và 77 (thềm lục địa).

[2] Xem Điều 123 ở Phụ lục II.

[3] Khi soạn thảo những nhận xét này, chính phủ Argentina đã tuyên bố việc chấm dứt Hiệp định! Điều này không thay đổi được thực tế là nó đã được tạo ra.

[4] Để biết thêm các quan điểm khác về cách giải quyết vấn đề này, xem L. McManus, “The Spratly Islands: A Marine Park?” [Quần đảo Trường Sa: Một công viên hải dương?] Ambio 23, 3 (tháng 5, 1994), tr. 181-186. Được coi như quan điểm viển vông khi xuất bản, ý tưởng của TS. McManus hiện nay được coi như một đề nghị theo nguyên tắc và phù hợp nhất với việc định ra các đặc tính một cách chính xác.