Giới thiệu

Chương này đưa ra một số quan điểm về tầm quan trọng của cách tiếp cận chức năng trong bối cảnh cụ thể của sáng kiến ngoại giao phòng ngừa Kênh 2 “Quản lý các xung đột tiềm tàng ở Biển Đông”. Đây sẽ là quan điểm của người trong cuộc. Từ khi sáng kiến này được đưa ra vào tháng 10/1989 cho tới hội thảo lần thứ 10 năm 2000, tôi rất vui mừng có cơ hội cùng làm việc với Đại sứ Hasjim Djalal trong việc tổ chức các cuộc hội thảo, bao gồm việc đề ra các chương trình nghị sự, lựa chọn các học giả để thuyết trình và biên soạn các báo cáo của hội thảo. Tôi cũng phải chịu trách nhiệm về khoản hỗ trợ tài chính từ Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA).[1] Có thể còn quá sớm để đưa ra một đánh giá toàn diện về sáng kiến này. Nhưng tôi nghĩ có rất nhiều điều để nói về phương thức này: mục đích của nó là gì, nó hoạt động có hiệu quả không, tại sao chỉ một số vấn đề nhất định được giải quyết còn các vấn đề khác thì không?.[2] Bằng cách đó, tôi hy vọng chứng minh được tầm quan trọng cốt yếu của cách tiếp cận chức năng này.

 

Tôi nghĩ Phương thức hội thảo này đã và đang tiếp tục có đóng góp giá trị không chỉ vào việc duy trì hoà bình và an ninh khu vực: ngoài giải quyết các thuyền đánh bắt cá bất hợp pháp và cướp biển, chưa từng có bất kỳ xung đột hải quân nào trên Biển Đông (A: South China Sea – nd) trong hơn 15 năm qua. Phương thức Hội thảo này còn thành công trong việc tập trung sự chú ý của ngày càng nhiều nhà bình luận vào các lĩnh vực rộng lớn hơn liên quan đến các vấn đề Biển Đông so với trước đây. Tất nhiên, các chuyên gia về nghề cá quan tâm tới việc đánh bắt cá; các nhà môi trường biển quan tâm tới suy thoái biển và việc thiếu khả năng xử lý tràn dầu; và các vấn đề phổ biến liên quan tới việc tìm kiếm và cứu hộ. Nhưng tôi cho rằng Phương thức hội thảo này là một trong các cách làm cho các vấn đề này được nhận thức một cách rộng rãi hơn, qua đó có được những tiến triển và tầm quan trọng, chứ không phải là việc quan tâm tới dự trữ dầu, giá trị thương mại của hầu hết các giếng dự trữ dầu ngoài khơi vẫn chưa được xác định rõ.

 

Hội thảo đầu tiên về Quản lý các xung đột tiềm tàng ở Biển Đông được tổ chức ở Bali, Indonesia vào tháng 2/1990. Kể từ đó đã có tới gần 50 hội nghị – các hội thảo, các nhóm kỹ thuật, và các cuộc họp của các nhóm chuyên gia - được tổ chức tại hầu hết các địa điểm thuộc khu vực Biển Đông,[3] đều nhằm tìm các mô hình hợp tác giữa các quốc gia ven biển. Mặc dù sự chú ý dường như chỉ tập trung vào các cuộc hội thảo thường niên, một khối lượng lớn công việc được đề ra từ các hội thảo này lại được diễn ra ở các diễn đàn khác.

 

Phương thức Hội thảo đã thu hút giới phê bình, nhưng hầu hết các nhận xét một phần bắt nguồn từ các giả định hoàn toàn sai lầm về việc chúng tôi đang nỗ lực làm gì. Ví dụ, chúng tôi không “giải quyết” tranh chấp về quyền tài phán ở Quần đảo Trường Sa (A: Spratly Islands – nd).[4] Điều này là không thể và những ai cho rằng chúng tôi lẽ ra phải giải quyết vấn đề này thì hoàn toàn không thể đưa ra cách làm việc có thể chấp nhận được (chưa nói đến có thể hoạt động được) cho một nhiệm vụ lớn như vậy. Và những ai xem xét phương thức này chỉ trên khía cạnh xây dựng lòng tin và an ninh và hoà bình khu vực không nhận ra rằng:

 

·        Biển Đông là một trong những con đường hàng hải quan trọng nhất trên thế giới với hơn một nửa tuyến đường chở dầu của thế giới qua đây hàng năm;

·        Các bản đồ mà các tàu lớn hay sử dụng có nhiều lỗi sai;

·        Các quốc gia ven biển hoàn toàn thiếu khả năng ứng phó với ô nhiễm và việc tìm kiếm và cứu hộ;

·        500 triệu người phụ thuộc vào Biển Đông với 80% lượng protein họ cần mỗi ngày;

·        Đánh bắt cá hầu như không được kiểm soát ở một vài khu vực (và kỹ thuật đánh bắt cá bất hợp pháp xảy ra ở khắp nơi);

·        Các hệ thống đá ngầm bị phá huỷ do đánh cá bất hợp pháp và xây dựng các đảo nhân tạo;

·        Sự đa dạng sinh học của Biển có giá trị vô cùng to lớn: nó cung cấp ¼ lượng cung thực vật phù du trên toàn cầu. 

Những khẳng định này - điều mà Phương thức Hội thảo này đã nỗ lực để phổ biến rộng rãi – có thể được đưa ra trên cơ sở dữ liệu xác định. Tất cả các cuộc đàm phán về trữ lượng dầu khổng lồ sẽ chỉ nhằm mục đích đầu cơ cho tới khi các phát hiện được đưa ra. Trong khi đó, khủng hoảng môi trường, sinh thái và an ninh con người vẫn hiện hữu.

 

Thực trạng năm 1989

 

Tôi đã kể lại ở đâu đó các trường hợp mà sáng kiến hội thảo được đưa ra.[5] Trong các phiên thảo luận về khả năng khuyến khích hợp tác biển ở Đông Nam Á, Tiến sĩ Hasjim Djalal cho rằng nếu như các quỹ được thành lập thì sẽ thật thú vị để xem liệu các nước ASEAN (lúc đó gồm 6 nước) có cho phép các quan chức nhà nước, các học giả, các nhà nghiên cứu… tham gia vào cuộc họp không chính thức bàn về khả năng tìm kiếm các cơ hội hợp tác biển ở Biển Đông hay không. Nếu cách tiếp cận được ủng hộ này là không thể chấp nhận được với các nước ASEAN thì sẽ có rất ít cơ hội cho cách tiếp cận này trong phạm vi rộng hơn về biển . Chúng tôi đã viết một tài liệu phác qua chiến lược dự kiến của chúng tôi và có thể khiến cho một vài quan chức cấp cao của Bộ Ngoại giao Canada quan tâm. Tôi phải nói ngay rằng tên của ngài Hasjim Djalal luôn luôn cần thiết để thu hút sự chú ý đối với dự kiến này. Một quỹ nhỏ trong Cơ quan phát triển quốc tế Canada được thành lập để cung cấp tiền cho các dự án đã tài trợ cho chúng tôi để đến thủ đô các nước ASEAN cùng với bài viết về khái niệm mà Tiến sĩ Djalal viết. Hội thảo đầu tiên - chỉ có 6 nước ASEAN được mời tới dự - bắt đầu vào tháng 2/1990. Hội thảo thứ hai triệu tập một năm sau đó có sự tham gia của Trung Quốc, Trung Hoa Đài Bắc, Lào và Việt Nam (vài vấn đề ở Campuchia đã khiến nước này không thể tham gia). Phương thức này ngay từ đầu đã gặp những khó khăn. Vì vậy cần đánh giá cao thực trạng chính trị và luật pháp khi phương thức này được bắt đầu. 

 

Định nghĩa “khu vực Biển Đông”

 

Định nghĩa của chúng tôi về “Biển Đông” bao gồm cả Vịnh Thái Lan, vì hai khu vực này có các mối liên kết về sinh thái mạnh mẽ. Cách tiếp cận chức năng đòi hỏi phải dỡ bỏ các giới hạn tuy thuận tiện cho các bên nhưng lại vô ích hoặc (trong bối cảnh này) mang tính nhất thời, do yếu tố địa lý hoặc chính trị tạo ra. Giữa hai khu vực biển này là biển nửa kín được tạo bởi lục địa châu Á và các quần đảo của Indonesia và Philippines. Thực tế, khu vực này hầu như hoàn toàn bị bao bọc bởi đất liền có nghĩa là có rất ít sự giao lưu với biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, dẫn tới rất nhiều hậu quả sẽ được nêu ở phần sau. Lý tưởng thì, chúng tôi muốn làm việc với tất cả các nước thuộc toàn bộ khu vực Biển Đông như đã được định nghĩ ở trên. Việc tham gia của Đài Loan là cần thiết và các đồng nghiệp của chúng tôi ở Bắc Kinh không phản đối điều này miễn là công thức “Trung Hoa Đài Bắc” được tuân thủ. Vì mọi người tham dự các cuộc họp đều nhận thức được điều này nên các khó khăn nảy sinh trong một bối cảnh chính thức hơn đều có thể tránh được. Việc bao gồm cả Vịnh Thái Lan với Biển Đông đưa ra một danh sách ấn tượng các quốc gia ven biển: Trung Quốc/Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Chúng tôi bao gồm cả Lào vì các quốc gia không có biển trong luật quốc tế cũng có quyền đối với khu vực biển của các nước láng giềng, và Lào là một phần của “khu vực”.

 

Hiện nay, chúng ta đã có thể đi du lịch dễ dàng tới các địa điểm ở Đông và Đông Nam Á. Những người đi trăng mật tới Vịnh Hạ Long của Việt Nam, mọi người thích ăn mừng năm mới cùng với vẻ đẹp đặc biệt của Luang Prabang hoặc Angkor. Năm 1989, những điều này hầu như là không thể. Lúc đó, thị thực du lịch cho Việt Nam dần phổ biến nhưng khách du lịch chủ yếu đến từ khối Sô Viết. Việt Nam khi ấy, ít nhất là về mặt chính thức, không phải là nước chào đón khách du lịch từ những nước có hệ tư tưởng khác, bao gồm cả sáu nước thành viên ASEAN.

 

Ở một mức độ nào đó nếu như Việt Nam đóng cửa với bên ngoài thì Lào còn hơn thế. Lào không muốn chịu ảnh hưởng của những người ngoài khối cộng sản chủ nghĩa, và tất nhiên nước Campuchia vẫn ở trong tình trạng hỗn loạn – Khmer Đỏ vẫn hoạt động, người dân thì bị bắt cóc và giết hại. Cả ba nước Đông Dương thuộc Pháp trước đây có xu hướng thi hành chính sách đóng cửa với bên ngoài và chỉ quan hệ với các nước có cùng hệ tư tưởng trên thế giới. Cho tới khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt lên điều hành đất nước, về mặt địa lý lẽ ra Việt Nam thuộc Đông Nam Á, nhưng lại không phải vậy. Các hội nghị khu vực về các vấn đề luật biển được tổ chức bởi mạng lưới SEAPOL[6] có rất nhiều đại diện của 6 nước ASEAN khi đó và thậm chí của cả Trung Quốc nhưng tôi nhớ chỉ có duy nhất một đại biểu của Việt Nam, từ Vụ luật pháp của Bộ Ngoại giao. Cứ như thể Việt Nam không tồn tại vậy. Và tất nhiên việc thiếu lòng tin  - chứ không đề cập đến sự thiếu hiểu biết và hiểu lầm – có cả từ hai phía..

 

Tất nhiên, tất cả những điều này đã thay đổi cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, nhanh hơn nhiều người nghĩ. Nhưng khi các thành viên của chúng tôi họp ở Bandung năm 1991, rõ ràng các mối quan hệ ví dụ như giữa các nhà khoa học biển của các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN là rất ít. Cần phải có mối quan hệ giữa hai nhóm này với lợi ích chung ở cả cấp chuyên gia và cá nhân. Nói cách khác, cái mà chúng ta vô tình gọi là “khu vực” chỉ là một cái tên và tất nhiên điều này đã thay đổi.

 

Ảnh hưởng của luật quốc tế

 

Ngay từ đầu, rõ ràng rằng chúng ta cần phải sử dụng các nguyên tắc của Luật Biển để thiết lập các cách thức, qua đó nếu hợp tác biển được hình thành giữa các nước, họ nên tham gia vào các hợp tác này. Trong khi hiện nay chúng ta có xu hướng coi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982[7] như một văn bản chỉ còn tồn tại trong ký ức thì cần nhớ rằng đây không phải là một trường hợp như vậy. Khi chúng tôi bắt đầu công việc này, hầu hết các nước của các thành viên của chúng tôi vẫn chưa phê chuẩn Công ước và Công ước cũng chưa có hiệu lực.

 

Cũng cần chỉ ra rằng trong khi các luật sư và các nhà ngoại giao có thể đã hài lòng với bản công ước cuối cùng, thì ngày càng rõ rằng các điều khoản dựa trên cơ sở khoa học của Công ước – bao gồm các điều khoản quy định sự hợp tác chức năng để đảm bảo một hệ thống thống nhất và hài hoà cách quản lý biển – lại gây ra các khó khăn chính trị cho một vài nước. Bản chất và phạm vi của một số nghĩa vụ trong Công ước không rõ ràng và theo quan điểm của tôi chính điều này gây ra tình trạng như hiện nay.[8] Còn rất nhiều việc cần phải làm, ví dụ như về quy chế của biển kín và nửa kín, đặc biệt với các phán quyết của tòa liên quan đến vấn đề hợp tác trong các lĩnh vực khác. Các cuộc tranh luận mang tính học thuật và pháp lý diễn ra cả về ý nghĩa chính xác của Điều khoản 121(3),[9] điều khoản quy định rằng những bãi đá không thể duy trì sự sống của loài người hoặc không có hoạt động kinh tế riêng thì không được phép có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.[10]

 

Công ước này dài và phức tạp - một hiệp ước đa phương dài nhất từng được đàm phán – và một số nước đã có sẵn các đội chuyên gia về mọi lĩnh vực trong khi các nước khác không có sự chuẩn bị này. Do đó, không có một sự hiểu biết chung về bản chất và phạm vi các quyền hợp pháp và nghĩa vụ của các nước ven biển với các nước láng giềng. Sự không đối xứng này - được nêu ra trong rất nhiều chủ đề mà chính phương thức của hội thảo này rất quan tâm - phải được giải quyết bằng các phiên họp “đuổi kịp” mà thực tế chính là các bài giảng về Luật Biển. Các sáng kiến như thế này không thể thành công nếu những ai phải chịu trách nhiệm với các sáng kiến này tự lừa dối mình ở mức mà mọi người trong một không gian và thời gian xác định đều biết đến như nhau.

 

Việc tham khảo Điều khoản 121(3)[11] phù hợp nhất trong ngữ cảnh này, vì phần lớn các loại địa hình đã được đặt tên thuộc nhóm Trường Sa không có ý nghĩa tài phán vì chúng bị chìm đi khi thuỷ triều lên và do đó không được coi là “quần đảo”. Các đảo này, chủ yếu là đá, có thể hình thành nên lãnh hải chứ không phải là một vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa. Rất dễ nghi ngờ rằng liệu có hòn đảo nào có thể duy trì sự sống con người hay có đời sống kinh tế riêng trên hòn đảo đó hay không.[12] Luật học của Toà án quốc tế vì công lý cho rằng các loại địa hình không quan trọng không nên có ảnh hưởng tới các biên giới trên biển, đặc biệt đối với các khu vực được hình thành từ các phần đất lớn hơn. Công ước cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa các đảo (được hình thành từ đất liền một cách tự nhiên, bao quanh bởi nước và ở trên mặt nước lúc thuỷ triều lên) và các đảo nhân tạo, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu thực tiễn quốc gia không quan tâm tới sự khác biệt này? Điều gì sẽ xảy ra nếu như việc xây dựng ở nơi có mức dâng của thuỷ triều thấp sẽ biến nó thành hòn đảo? Công ước nêu rõ rằng điều này không thể xảy ra - một hòn đảo là một vùng đất được hình thành tự nhiên. Hơn nữa, Công ước cho thấy rõ sự khác biệt giữa đảo và đảo nhân tạo và chỉ rõ không có sự liên hệ giữa chúng. Nói cách khác, theo như Công ước, việc xây dựng ở những nơi có mức dâng thuỷ triều thấp không “hình thành” được các đảo. Chúng vẫn chỉ là các “đảo nhân tạo”.[13]

 

Hơn nữa, trong Công ước không nêu rõ liệu có thể “biến” đảo nhân tạo thành đảo như Điều 121 hay không. Do đó, để có thể hiểu hoặc hình dung được, hãy bỏ đi ý nghĩa rõ ràng của Công ước trong việc duy trì sự khác biệt giữa đảo tự nhiên và nhân tạo. Cuối cùng, Công ước đó chỉ còn là một quy phạm chứ không còn là một bộ nguyên tắc chỉ đạo nữa. Các nguyên tắc của Công ước phải được tuân thủ chặt chẽ - đó là cách các luật sư đọc và hiểu các văn bản luật pháp, vì các cách làm khác làm giảm đi tính quy phạm của chúng và đặt ra nghi vấn về tính ứng dụng của chúng. Tại sao lại gây ra rắc rối bằng việc đưa ra các quy tắc rõ ràng và cụ thể nếu như các quốc gia có quyền phá vỡ chúng?

 

Thực tiễn ở các nước ven Biển Đông dường như có xu hướng xây dựng ở những nơi có mức dâng thủy triều thấp hoặc đá ngầm để tạo ra các công trình nổi trên mặt nước khi thủy triều dâng. Như các phương tiện truyền thông đưa tin, điều các nước muốn làm là mời mọi người tới để đưa ra một kết luận tài phán thích hợp từ vấn đề này - nhằm thừa nhận rằng có thể dùng những loại địa hình này để khẳng định yêu sách về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế/thềm lục địa. Nếu như Công ước này không có hiệu lực hoặc có ít nước phê chuẩn, thì chắc chắn tập quán khu vực về luật quốc tế sẽ được hình thành nhờ đó mà việc xây dựng trên đá ngầm và ở những nơi có mức dâng thuỷ triều thấp sẽ được công nhận như là cơ sở để tuyên bố quyền tài phán trên biển ở các khu vực rộng lớn hơn. Tôi đoán điều này sẽ bị phản đối ở các quốc gia khác: Tôi không thể tưởng tượng được Mỹ, Liên minh Châu Âu, Úc và Nhật sẽ không đưa ra những phản ứng dữ dội. Ít nhất, nó sẽ gây ra sự nhập nhằng và nghi ngờ trong cuộc tranh luận. Theo quan điểm của tôi, với việc chấp nhận Công ước này, sẽ không xảy ra việc đó mặc dù chúng ta vẫn chưa có cách giải quyết thích đáng cho khổ 3 của Điều 121.

 

Để kết luận điểm này, thực trạng của Công ước Luật Biển không còn là một kết luận đã được nêu năm 1990, và có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc liệu có bao nhiêu điều khoản của Công ước có ý nghĩa trong thực tiễn. Tuy nhiên, ý nghĩa rõ ràng của hiệp ước là để thúc đẩy hợp tác trên biển.

 

Đề ra chương trình nghị sự

 

Như đã nêu ở phần trên, chúng tôi cho rằng cần phải (a) làm rõ rằng sẽ không thảo luận các vấn đề chủ quyền và quyền tài phán, (b) nhưng cũng chỉ ra các khu vực hợp tác không chỉ là có thể mà còn được đỏi hỏi bởi luật quốc tế và bởi vì sự cân nhắc thực tế. Nghĩa là, sự hợp tác không chỉ là kết quả được mong muốn mà còn là điều kiện thiết yếu để đạt được mục tiêu đề ra. Hợp tác vì lợi ích hợp tác đưa ra ít sự chú ý hơn một hành động phối hợp nhằm một mục đích chung. Tôi sẽ quay lại trở lại vấn đề này sau.

 

Do đó, chúng tôi xác định các lĩnh vực hợp tác trên biển liên quan ở Biển Đông, và mời các chuyên gia khu vực nghiên cứu về các khả năng của cách tiếp cận khu vực. Chúng tôi đề ra các chủ đề rộng nhưng quan trọng: nghiên cứu khoa học biển, môi trường và sinh thái học, sự tiếp giáp của các đường bờ biển, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên hữu sinh và vô sinh, và các cơ chế hợp tác. Cuối Hội thảo lần thứ nhất, chúng tôi đã có một danh sách các ý tưởng của các chuyên gia cho thấy sự mong muốn có một cách tiếp cận khu vực. 

 

Cấu trúc tiến triển của các hội nghị

 

Các kết quả này đã được xem xét tại Hội thảo lần thứ 2, nhưng rõ ràng một cuộc họp toàn thể bao gồm các nhà ngoại giao, các nhà khoa học, luật sư, thuỷ thủ, các chuyên gia quản lý tài nguyên và nhiều nhà khoa học khác không thể giải quyết được nhiều vấn đề vì mức độ tranh luận không cao do vượt quá tầm khả năng của nhiều học giả. Do đó, Hội thảo lần thứ 3 (1992) đề xuất một cuộc họp của các nhà khoa học biển của khu vực cho phép các kiến nghị ưu tiên được phát triển hơn nữa. Các kết quả của hội thảo này sẽ được chuyển tới Hội thảo lần thứ 4.

 

Ngay từ đầu, Viện nghiên cứu khoa học biển của trường Đại học Philippines đã đóng vai trò tiên phong trong lĩnh vực này, nên chính phủ Manila đề xuất tổ chức nội dung cho Cuộc họp lần thứ 1 của Nhóm kỹ thuật về Nghiên cứu khoa học biển. Cuộc họp này diễn ra tại Manila năm 1993.[14]

 

Từ đó, các cuộc họp đã tăng lên, các lĩnh vực khác cũng thành lập Nhóm kỹ thuật (TWGs) (các Vấn đề về luật pháp được thêm vào năm 1995). Nhưng những cuộc họp này vẫn chưa đi vào cụ thể. Do đó, chúng tôi đã tổ chức các cuộc họp của Nhóm các chuyên gia (GEMs) để nghiên cứu các vấn đề cụ thể. Ví dụ, một Nhóm các chuyên gia được thành lập để xem xét các cách trao đổi thông tin về thuỷ văn học. Các học giả bao gồm các nhà thuỷ văn học đứng đầu của các lực lượng hải quân khu vực.

 

Sau đó, Nhóm các chuyên gia sẽ báo cáo cho Nhóm kỹ thuật của mình để Nhóm kỹ thuật báo cáo cho Hội thảo tiếp theo (hiện nay được tổ chức thường niên). Các báo cáo này bao gồm chi tiết những điều đã đạt được và các kiến nghị cho tương lai. Các cuộc Hội thảo sẽ chính thức quyết định chấp nhận các kiến nghị hợp tác và “có thể thông báo các hợp tác này cho các chuyên gia phụ trách lĩnh vực đó.”  Do đó, các cuộc Hội thảo trở thành công cụ chỉ dẫn cho cả Phương thức.

 

Nhóm nghiên cứu của tôi tại trường Đại học British Columbia (UBC) là những người chuẩn bị báo cáo, và chúng tôi đưa ra các bản báo cáo hoàn chỉnh của mỗi cuộc họp kèm theo phần tóm tắt các phiên họp, các tài liệu được thuyết trình hoặc được thảo luận (chúng tôi nghiên cứu và viết một số tài liệu đó), cũng như các chi tiết về việc ai tham gia và chương trình nghị sự. Chúng tôi cũng làm việc với Tiến sĩ Djalal về các tuyên bố đồng thuận cuối cùng, các cuộc đàm phán như vậy có thể gây tranh cãi cao, và kéo dài hàng giờ.[15]

 

Những người tham gia

 

Nhân tố quan trọng để hình thành nên Phương thức Hội thảo là sự tham gia của các cá nhân cấp cao. Sự tham gia của các nhà thủy văn học hàng đầu của các lực lượng hải quân khu vực cũng được nhắc đến. Tên của các nhà khoa học biển làm về các vấn đề này sẽ được tất cả các chuyên gia trên thế giới về lĩnh vực này biết tới. Những người đứng đầu bộ phận luật pháp và hiệp ước quốc tế của các Bộ Ngoại giao khu vực cũng tham gia vào các cuộc Hội thảo thường niên. Các nhà chức trách khu vực cho phép các chuyên viên cấp cao tham gia để minh chứng cho giá trị của các cuộc họp dự án. Điều đó cũng có nghĩa là ảnh hưởng của các quyết định sẽ lớn hơn (có thể được phổ biến rộng hơn) mong đợi với sự tham gia của nhiều quan chức cấp dưới.

 

Nhiều người cho rằng các quan chức cấp cao ở các bộ ngoại giao không giao giờ có thể ở một vị trí không chính thức thậm chí ở các hội thảo kín như Hội thảo này. Trước kia có một cấp độ thủ tục nhưng đã được xóa bỏ vì những người tham gia đã dần biết nhau: cũng có một sự liên tục tương đối trong việc cử người tham dự các hội nghị này (lựa chọn tùy thuộc vào từng nhà chức trách).

 

Điểm cuối cùng minh chứng hơn nữa giá trị của Phương thức đối với khu vực này. Ngân quỹ cho phép chúng tôi mời ba người tham gia từ các quốc gia phù hợp với các Hội thảo này (được trả tất cả chi phí). Chúng tôi quyết định sử dụng quỹ để tạo điều kiện cho hai người tham gia vào các cuộc họp TWG và cho một người tham gia vào GEM. Tuy nhiên, đến năm 1995, khi có danh sách những người tham gia vào các cuộc họp, chúng tôi chỉ cấp tiền cho một nửa số tiền chi trả cho ba người tham dự đó. Ngoài ra, các nhà chức trách khu vực phải tự trả cho các chi phí sắp xếp và tổ chức các cuộc họp. 

 

Kết quả

 

Đến năm 2000, sau gần 10 năm làm việc, chúng tôi đã đạt được một hiệp định cho các sáng kiến hợp tác trong các lĩnh vực sau:

·        bảo vệ đa dạng sinh học;

·        giám sát mức nước biển dâng;

·        trao đổi thông tin và dữ liệu về nghiên cứu khoa học biển;

·        giám sát môi trường biển;

·        chuẩn hoá các quy chuẩn giáo dục và đào tạo cho các thuỷ thủ;

·        nghị định thư khu vực về trao đổi dữ liệu và thông tin về thuỷ văn học;

·        một bản khảo sát thuỷ văn chung ở các địa điểm ở Biển Đông;

·        các khu vực hợp tác biển bao gồm các mô hình khác nhau về việc khai thác dầu mỏ ở các vùng ngoài khơi chung;

·        hoà hợp các luật và chính sách về môi trường biển;

·        ước tính dự trữ cá;

·        trao đổi thông tin về các nguồn tài nguyên vô sinh không có hydrocacbon;

·        các vấn đề nổi lên từ thực trạng “nửa kín” của Biển Đông được nêu ở Điều 123

Công ước Luật Biển;

·        các quy tắc để thúc đẩy sự bảo vệ và bảo tồn môi trường biển. 

Có thể nói, Phương thức Hội thảo đã thực hiện được các mục tiêu của nó. Mặc dù nhiệm vụ đưa các ý tưởng này vào thực tiễn được giao cho các tổ chức khác nhưng công việc bảo vệ đa dạng sinh học được thực hiện dưới sự bảo trợ của chúng tôi. Theo lý thuyết thì công việc của kênh hai sẽ do các nước lựa chọn hoặc nếu không thì ở cấp độ chính thức. Đây cũng là mục tiêu cho công việc của Hội đồng Hợp tác An ninh ở châu Á – Thái Bình Dương (CSCAP).

GS. Ian Townsend-Gault, Khoa Luật, Đại học British Columbia, Canada
Người dịch: Vũ Song Hà
Người hiệu đính: Lê Quang Hưng

Đọc phần tiếp theo tại đây
Bài viết trích trong " Security  and International Politics in the South China Sea",

Chủ biên: Sam Bateman, Ralf Ammers, năm 2009.

Bản gốc tiếng Anh " The contribution of the South China Sea Workshops: the importance of a functional approach"

Bản quyền thuộc NCBĐ



[1] Khoản hỗ trợ này lên tới hơn 5 triệu đôla Canada trong 11 năm. “Managing Potential Conflicts in the South China Sea” [Quản lý các xung đột tiềm tàng ở Biển Đông] là tên khoản quỹ đầu tiên mà chúng tôi nhận được, được đưa ra bởi Chương trình quản lý các biển đổi của CIDA – các quan chức thích sử dụng từ “quản lý” [managing] trong mỗi sáng kiến mà chương trình này hỗ trợ (hiện nay chương trình này không còn tồn tại nữa), và chúng tôi vẫn giữ lại tên đó.

[2] Một vài nhà phê bình đã yêu cầu chúng tôi giải thích cho những gì mà họ nghĩ chúng tôi đang làm gì hoặc lẽ ra phải làm gì, ngược lại với những gì chúng tôi đã làm hoặc nói sẽ làm và một số trường hợp không được chú ý tới. Điều này cho thấy các quan điểm hoài nghi. Học giả Liselotte Odgaard của trường Đại học Aarhus đã đưa ra bài phân tích đầy đủ về sáng kiến này: xem “Deterrence and Co-operation in the South China Sea,” Contemporary Southeast Asia 23, 2 (2001), tr. 292-306, và các bài toàn diện hơn của bà The Balance of Power in Asia – Pacific Security: US-China Policies On Regional Order (London: Routledge,2007) và “The South China Sea: ASEAN’s Security Concerns About China,” Security Dialogue 34, 1 (tháng 3/2003), tr. 11-24.

[3] Danh sách hoàn chỉnh các cuộc họp ở Phụ lục I của chương này.

[4] Có rất nhiều bài viết về chủ đề này. Các vấn đề luật pháp được tranh luận sắc bén trong R.Haller-Trost, The Spratly Islands – A Study on the Limitations of International Law [Quần đảo Trường Sa – Nghiên cứu về những giới hạn của luật pháp quốc tế], Centre of South-East Asian Studies Occasional Paper No.14 (University of Kent at Canterbury). Có thể xem thêm bài của Leni Stenseth, “Nationalism and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric,” [Chủ nghĩa dân tộc và Chính sách đối ngoại – Trường hợp Nam Sa của Trung Quốc], Centre for Development ands Environment, University of Oslo, 1999.

[5] Xem Ian Townsend-Gault, “Preventive Diplomacy and Pro-Activity in the South China Sea,” [Ngoại giao phòng ngừa và Hành động tích cực ở Biển Đông], Contemporary Southeast Asia 20, 2 (August 1998), tr. 171-190. Để biết chi tiết về căn nguyên và cách làm việc của dự án, xem Hasjim Djalal và Ian Townsend-Gault, “Managing Potential Conflicts in the South China Sea: Informal Diplomacy for Conflict Prevention,” [Quản lý Xung đột tiềm tàng ở Biển Đông: Ngoại giao không chính thức để ngăn ngừa xung đột] trong C.A. Croker, F.O. Hampton, và P. Aall (eds), Herding Cats: Multiparty Mediation in a Complex World (Washington DC: United States Institute of Peace Press, 1999), tr. 107-134.

[6] Chương trình Đông Nam Á về luật biển, chính sách và quản lý được thành lập năm 1983.

[7] Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, Montego Bay, ngày 10/12/1982, có hiệu lực vào 16/10/1994, United Nations Treaty Series, Vol. 1833, tr. 3. Ngày 22/7/2007, trang web của Liên hợp quốc liệt kê 155 quốc gia tham gia Công ước này.

[8] Ví dụ, tra trên mạng cụm từ “biển nửa kín” (semi-enclosed seas) cho kết quả là phạm vi nghiên cứu khoa học và cách quản lý và hầu như không có sự quan tâm của các luật sư quốc tế.

[9] Xem toàn bộ điều khoản này ở Phụ lục II.

[10] Thuật ngữ “đá” không được định nghĩa trong Công ước. Tuy nhiên, các quy tắc diễn giải được nêu ra trong Công ước Viên về Luật các Điều ước ở một mức độ nào đó hạn chế cách diễn giải của một số nhà phân tích: nhiều ý nghĩa bao gồm cả thuật ngữ này không được mở rộng. Để biết thêm chi tiết, xem chương của TS. Schofield trong phần này, và các tài liệu tham khảo của ông ở chú thích 50-53.

[11] Xem toàn bộ Điều 121 ở Phụ lục II.

[12] Để hiểu sự đánh giá theo từng loại địa hình như Điều ước 121, xem D.Hancox và J.R.V.Prescot, A Geographical Description of the Spratly Islands and An Account of Hydrographic Surveys Amongst Those Islands [Mô tả về mặt địa lý của quần đảo Trường Sa và tầm quan trọng của các nghiên cứu thủy văn học ở những đảo đó], Maritime Briefing 1, 6 (Durham: International Boundaries Research Unit, 1995).

[13] Công ước không đưa ra định nghĩa về “đảo nhân tạo” và cũng không yêu cầu điều này. Ý nghĩa tài phán chỉ liên quan tới “các đảo” được định nghĩa ở Điều khoản 121(1).

[14] Xem danh sách các cuộc họp ở Phụ lục I. Nhóm kỹ thuật này có nhiều cuộc họp hơn các nhóm khác, kết quả của các cuộc họp xem Tom Naess, “Environment Cooperation around the South China Sea: The Experience of the South China Sea Workshops and the United Nations’ Strategic Action Programme,” [Hợp tác Môi trường ở Biển Đông: Kinh nghiệm của các Hội thảo về Biển Đông và Chương trình Hành động Chiến lược của Liên Hiệo Quốc], Pacific Review 14, 4 (2001), tr. 553-573; và “Dangers to the Environment,” [Những nguy hiểm đối với môi trường] trong Timo Kivimaki (ed), War or Peace in the South China Sea? [Chiến tranh hay Hòa bình ở Biển Đông?] (Copenhagen, NIAS Press, 2002), tr. 42-53 của cùng tác giả.

[15] Điều này lại minh chứng những thành viên quan trọng đổ tại Phương thức. Nếu các Hội thảo không quan trọng đối với các thành viên hay chính quyền cử  họ thì tại sao mọi người lại tốn thời gian và những khác biệt (đôi khi là rất nhỏ) về quan điểm đối với từng câu chữ của Tuyên bố? Báo cáo tại Hội nghị luôn luôn có thể tìm được từ các tác giả.