Tóm tắt         

Bản tham luận này nghiên cứu những tài liệu tiêu biểu đời Tống, đời Nguyên và đời Minh nhằm tìm hiểu xem các học giả Trung Quốc thời “cận đại” và “trung đại” suy nghĩ như thế nào về các đảo san hô trong Biển Đông. Có thể chứng minh được đôi điều: thứ nhất, thật khó có thể coi các tên được dùng trong các văn bản cổ là tương ứng với các địa điểm cụ thể nào đó; thứ hai, hầu hết các văn bản đều ám chỉ là các đảo đang được nhắc đến là các địa điểm nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc; thứ ba, một vài mô tả trong một số đoạn trích về các địa điểm này, cần được giải thích trong khuôn khổ văn học mà chúng nằm trong đó; thứ tư, hệ thống các tuyến đường thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á và một số hiểu biết về không gian đại dương có phần chịu ảnh hưởng của sự tồn tại của các nhóm đảo khác nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người ta cũng có ấn tượng là, không như các đồng nghiệp đời Thanh, các nhà địa lý Trung Quốc cổ khi nói đến các địa điểm này thường không biết về những gì mà họ đã đề cập đến hoặc chép lại. Vài tác giả chỉ đơn thuần xem chúng là các khu vực nguy hiểm, gắn chúng với những chuyện kỳ dị. Những chuyện thất thiệt như vậy cũng có thể tìm thấy trong các tập bản đồ ra đời trước đó. Phần cuối của tham luận này sẽ bàn đến những điều này và những vấn đề khác, đồng thời cũng sẽ sơ lược trình bày về vấn đề các bản đồ của Bồ Đào Nha thế kỷ 16.


Từ khóa         

Nghiên cứu lịch sử Trung Hoa (khoảng 1000 - 1600); nghiên cứu địa danh; các quan điểm của các học giả khác; các tuyến đường thương mại thời thuyền buồm; các bản đồ cổ (Trung Quốc và một số của Bồ Đào Nha)

Tiểu sử

Roderich Ptak là giáo sư ngành Trung Quốc học của Đại học Tổng hợp Munich. Các tác phẩm đã xuất bản của ông bao gồm một số cuốn sách và bài viết về lịch sử hàng hải, lịch sử thương mại, lịch sử địa lý châu Á ... dựa trên các nguồn tài liệu của Trung Quốc, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và các nguồn khác, và chủ yếu liên quan đến các giai đoạn cận đại và trung đại.

 

Các tuyến đường thuyền buồm

Vào thời kỳ thuyền buồm, có hai tuyến đường thương mại chính nối liền miền Nam Trung Quốc với Đông Nam Á. Tuyến thứ nhất dẫn đến quần đảo Thất Châu ngoài khơi đảo Hải Nam và sau đó tiếp tục đi về hướng biển Việt Nam. Nó đi qua phía Tây nhóm đảo Hoàng Sa (Paracel). Tàu thuyền ít khi đi dọc bên phía Đông các đảo này. Đi xa hơn về phía Nam, tới gần Côn Đảo (Pulau Condore), tuyến đường chính chia ra nhiều hướng khác nhau. Một tuyến đi tới vịnh Thái Lan, tuyến thứ hai dẫn đến Patani và các địa điểm khác nằm dọc bờ biển Đông Mã Lai, và tuyến thứ ba tới Tg Datu nằm trên bờ Tây Bắc đảo Borneo.

Tuyến đường thương mại chính thứ hai nằm về phía Đông và nối liền Phúc Kiến với Quảng Đông tới bờ biển phía Tây Lũ Tống (Luzong). Tuyến đường này đi ngang qua phía Tây Nam đảo Đài Loan, hoặc quần đảo Đông Sa (Pratas), và sau đó tiếp tục đi về hướng vịnh Manila. Từ đây, nó rẽ vào đảo Mindoro, Palawan, Sabah, Brunei và các điểm khác nằm dọc bờ bắc đảo Borneo. Nó nối với nhánh Việt Nam - Bornéo của tuyến đường thương mại thứ nhất gần Tg Datu. Các nhánh khác của tuyến đường thương mại thứ hai đi qua biển Xulu (Sulu). Các nhánh này vươn dài tới tận Mindanao và quần đảo Xulu. Sau khi đi qua quần đảo Xulu, tàu thuyền sẽ đi vào biển Xêlếp (Celebes) và cuối cùng đi đến bờ biển Minhassa hoặc các đảo Sangir. Đi theo một cách khác, chúng có thể đi dọc bờ biển Mindanao. Từ đây hoặc từ nhóm đảo Sangir, chúng có thể đi tới các vùng trồng cây gia vị ở miền Đông IndonesiaTimor[1].

Sự xuất hiện hệ thống đường đôi này có phần liên quan đến sự tồn tại của các đảo đá ở vùng trung tâm và vùng phía Tây Biển Đông. Đi lại trong các vùng biển này nhất là trong các khu vực tương đối rộng như quần đảo Laccadive hay xung quanh các nhóm đảo Andaman và Nicobar, được cho là rất khó khăn. Những cơn gió thất thường, các bãi cát, dòng chảy ngầm và nhiều chướng ngại khác gây ra những hiểm họa mà các nhà hàng hải phải tìm cách phòng tránh hoặc giảm thiểu chúng. Hai tuyến đường được phác thảo trên đây có thể có nhiều khả năng dự đoán trước hơn và an toàn hơn bởi vì chúng tránh xa các trở ngại của thiên nhiên. Do đó, giao thông đường trường giữa Trung Quốc và Đông Nam Á thường đi theo rìa ngoài Biển Đông. Chỉ trong những trường hợp hy hữu tàu thuyền mới đi thẳng từ đảo Borneo tới miền Nam Trung Quốc (hoàn toàn chỉ là giả định) bởi vì con đường này cắt ngang quần đảo Trường Sa (Spratly) và bãi ngầm Macclesfield (quần đảo Trung Sa). Giao thương trực tiếp từ Đông sang Tây có nghĩa là từ bờ biển Việt Nam tới Philippines, phía trên hay dưới 120 - 130 vĩ Bắc có thể thực hiện được và có lẽ đã được thực hiện vào thời trung đại, nhưng ta biết rất ít về mối liên hệ này[2]. Vào các giai đoạn sau đó, “kênh” này được các tàu thuyền đi từ Malacca tới Manila sử dụng.

Nhìn từ cả hai đầu mút phía Bắc và phía Nam, vùng trung tâm của Biển Đông đã tạo thành một trở ngại cho thương mại vào giao thông giữa vùng Đông Nam Á và vùng bờ biển Trung Hoa - ít nhất cho tới tận thế kỷ 16. Chỉ có vài đảo và bãi ngầm nằm rải rác ngang vùng biển này có thể tạo thành những điểm dừng chân nghỉ hoặc các điểm mốc cho ngư dân, đôi khi có lẽ là cho cả một ghe thuyền buôn bán nào đó bị trôi dạt khỏi tuyến đường chính, nhưng đối với số đông các nhà hàng hải thì phần lớn chúng không quan trọng và vẫn còn là các địa điểm khó nhận biết. Không một tài liệu nào trước thế kỷ 16, kể cả là tài liệu của các nước Đông Nam Á hay của Trung Quốc, quan tâm đến việc đưa ra mô tả địa lý đầy đủ về các khu vực này hay bàn về sự phân bố không gian của các nhóm đảo và đảo đá khác nhau; tất cả những gì chúng ta có về thời kỳ tiền châu Âu (chỉ thời kỳ trước khi người châu Âu thâm nhập vào châu Á - ND) là các đoạn tham chiếu mơ hồ trong một loạt các tài liệu phần lớn là của Trung Quốc mà chúng ta sẽ quay lại với chúng ngay bây giờ[3].

Các tài liệu viết thời nhà Tống và nhà Nguyên

Thật sự là các tác phẩm cổ đại của Trung Quốc có nói bóng gió về sự tồn tại của các đảo trong Biển Đông nhưng các đoạn tham chiếu đó không thật rõ ràng và do đó tôi không đề cập đến ở đây[4]. Vào thời kỳ nhà Tống và nhà Nguyên, các đoạn trích được tìm thấy nhiều hơn. Thời đó, các đảo này thường được người ta gọi là “thạch đường” hoặc “trường sa”, theo nghĩa văn học là “bãi”, “dải đá”... Trong một số trường hợp cả hai tên/thuật ngữ này cùng tồn tại, trong các trường hợp khác chỉ một thành phần xuất hiện. Có rất nhiều cách viết và thường là có thành phần bổ tố “thiên lý” (ngàn dặm) và “vạn lý” (mười ngàn dặm) gắn thêm vào. Các học giả Trung Quốc đã có nhiều cố gắng nỗ lực nhằm chứng minh rằng các tên này trong một số trường hợp là chỉ quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và trong một số trường hợp khác chỉ bãi ngầm Macclesfield và quần đảo Trường Sa (Spratly); đôi lúc chúng còn được gắn với nhóm đảo Đông Sa nằm ở phần phía Đông Bắc Biển Đông.

Thường thì mục tiêu của họ ở đây là chứng minh toàn bộ khu vực này là một phần của lãnh thổ Trung Quốc - một bộ phận cấu thành của bản đồ (bantu) Trung Quốc cổ, hay nước Trung Quốc cổ - từ buổi bình minh lịch sử cho đến thời hiện đại. Các “bằng chứng” khảo cổ cũng được viện dẫn ra để “chứng minh” rằng các học giả Trung Quốc đã đúng, nhưng dưới con mắt các nhà quan sát phương Tây hầu hết các tài liệu phát hiện về khảo cổ đều còn đáng nghi ngờ. Ngoài ra, đồ gốm sứ Trung Quốc và tiền đồng Trung Quốc được khai quật ở nhiều nơi thuộc Đông Nam Á, và không ai lại khẳng định rằng các nơi này hiện là một phần của Trung Quốc. Nói một cách đơn giản, sự xuất hiện của đồ gốm sứ và các cổ vật khác có lẽ chứng tỏ được điều gì đó hoặc chẳng chứng tỏ được gì; nó chưa hẳn là chứng minh cho sự hiện diện “liên tục” của người định cư và các viên chức chính quyền Trung Quốc tại một khu vực đã nêu.


Nhưng chúng ta nên quay lại với những tài liệu viết. Việc phân tích kỹ các đoạn trích tiêu biểu nhất trong các bản ghi lại từ thời Tống và thời Nguyên, tìm được trong các tác phẩm như là “Vũ Kinh tổng yếu” (1044), “Tống hội yếu di cảo”, “Dư địa kỷ thắng” (1227) và “Phương dư thắng lãm” (lời tựa nguyên bản năm 1239) cho thấy: các yêu sách hiện nay về quyền bá chủ của Trung Quốc khó được người ta ủng hộ[5]. Hầu như chẳng có gì gợi lên rằng các nhà địa lý Trung Quốc quan niệm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Đôi lúc, tôi cũng đã cố gắng chứng minh rằng thuật ngữ truyền thống của Trung Quốc chỉ biên giới sẽ đề đạt điều ngược lại, đúng hơn là trong mắt các tác giả đời Tống và đời Nguyên, các đảo này nằm ngoài “cương vực biển” Trung Quốc[6].

Bản thân các tác phẩm đời Tống và đời Nguyên cung cấp rất ít tư liệu về các đảo trong Biển Đông, nhưng ít ra chúng cũng đã gắn kết sự tồn tại của các đảo này với các khái niệm khác nhau về không gian. Phải đề cập qua về các tài liệu này trước khi chúng ta đi tiếp đến các tài liệu sau đó. Tác phẩm ra đời sớm nhất là cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi (1178). Tác phẩm này đặt Trường Sa và Thạch Đường nằm trong “biển Đông”, gần vùng biển hỗn loạn gọi là Weilu. Đây là một địa điểm thần thoại vốn đã được nói tới nhiều trong cuốn Trang Tử (Zhuangzi). Hơn nữa, khu vực này còn được gắn một cách mơ hồ với “Nữ Quốc”, một nơi nào đó ở xa về phía Đông. Khi đọc nội dung này, ta thấy rõ ông Chu đã được thông báo khá rõ về tuyến đường biển phía Tây ven theo bờ biển Việt Nam (Tây dương châm lộ) nhưng lại hầu như không biết gì về tuyến đường phía Đông đi qua Lũ Tống (Luzon) - Philippines (Đông dương châm lộ - ND). Với ông, vùng biển bên ngoài Trường Sa và Thạch Đường vẫn còn là một vùng bí hiểm không có ranh giới rõ ràng. Do đó, có vẻ như các đảo ở Biển Đông tạo thành một kiểu thành luỹ thiên nhiên bên ngoài ranh giới phía Nam Trung Quốc[7].

Cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp là tài liệu đầu tiên liệt kê từ Trường Sa cùng với từ Thạch Đường. Thường thì các tác phẩm ra đời sớm hơn nó chỉ có một từ/tên (Thạch Đường hoặc một danh từ khác) để chỉ các đảo trong Biển Đông. Do đó, ta có thể nói rằng, kể từ Chu Khứ Phi các nhà địa lý Trung Quốc bắt đầu ghi nhận các đảo này theo nghĩa nhiều hơn một nhóm hoặc cụm đảo.

Tác phẩm tiếp theo được xem xét đến ở đây là cuốn Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát (1225). Nhiều đoạn trong cuốn này được chép lại từ cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp. Các đoạn đề cập đến các đảo san hô được đưa vào phần mô tả chung về đảo Hải

Nam và rõ ràng chúng có nhiều điểm tương tự như trong tác phẩm của Chu Khứ Phi. Các khái niệm về không gian trong hai tài liệu này cũng giống nhau. Bên cạnh đó, một số tên của các vùng biển này có lẽ chịu sự ảnh hưởng của Hồi giáo. Sự khác biệt lớn giữa hai tác phẩm này là: Triệu Nhữ Quát hiểu biết rõ hơn về tuyến đường phía Đông mặc dù ông chỉ mô tả nó cho tới đoạn đến Philippin, có lẽ là do ông không nhận thức được hình dạng thực sự của Biển Đông và ông vẫn còn tin tưởng là các đảo san hô nằm trong biển đó là một kiểu bờ rìa tự nhiên bên ngoài nó mọi cái còn lại đều không xác định[8].

Vào thời nhà Nguyên, các khái niệm về không gian bắt đầu có sự thay đổi. Tuyến đường phía Tây ngày nay được kết nối với nhiều vùng biển Tây dương khác nhau, và tuyến đường phía Đông được kết nối với nhiều vùng biển Đông Dương khác nhau. Nói chung tuyến đường phía Đông, đi qua Philippin tới miền Đông quần đảo Indonesia được người ta biết rõ ràng hơn rất nhiều so với trước đây. Điều này được phản ánh qua một đoạn trong cuốn Đại Đức Nam Hải Chí (Dade Nanhai Zhi, 1304) và trong cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên (1349/50)[9].

Đại Đức Nam Hải Chí không đề cập đến các đảo ở Biển Đông một cách rõ ràng vì vậy chúng tôi để nó qua một bên. Nhưng cuốn Đảo Di Chí Lược của Uông Đại Uyên là một cuốn có giá trị vì nó có một đoạn mô tả riêng đầu tiên về các đảo này. Trong một dịp trước đây, tôi đã có giải thích rằng cuốn sách này của họ Uông bao gồm 99 phần (cộng thêm 1) viết về các xứ sở và phần viết về các đảo ở Biển Đông nằm trong phần số 81. Những nhận xét đánh giá khác về cấu trúc và hình thức của cuốn Đảo Di Chí Lược gợi cho ta thấy rằng sự sắp xếp thứ tự này có thể không phải là ngẫu nhiên. Trái lại, nhiều đặc điểm khác nhau trong nguyên bản có thể được người ta giải thích theo nghĩa các khái niệm thuật số đơn giản bắt nguồn từ địa lý cổ đại Trung Quốc. Nhưng điều đó không liên quan tới chúng ta ở đây. Chỉ cần nói rằng Uông Đại Uyên, cũng giống như hầu hết các học giả trước ông, có lẽ đã nhận thức các đảo trong Biển Đông như là rào chắn tự nhiên. Thú vị là, ông cũng gắn các đảo này với những phần khác của thế giới, bao gồm cả Triều Châu nằm trên lục địa Trung Hoa, khẳng định rằng chúng có lẽ được nối liền bởi "các mạch ngầm". Điều đó nhắc nhở cho ta về một đoạn ghi trong cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp của họ Chu trong đó các đảo trong Biển Đông được gắn với ba dòng chảy lớn chảy về các hướng khác nhau, toàn bộ khu vực vừa là một rào chắn vừa là một điểm tận cùng về địa lý tự nhiên[10].

Những điều nêu trên đây hàm nghĩa là phần lớn Biển Đông và nhiều đảo trong đó tạo thành một bộ phận của một thế giới khác. Chỉ có phần phía Bắc của vùng biển này - vịnh Bắc Bộ (Giao Chỉ Dương) và cái gọi là Thất Châu Dương, nghĩa là vùng biển trải dài bao quanh đảo Hải Nam - là nằm trong "tầm tay" Trung Quốc[11]. Khu vực nằm gần và bao quanh Thạch Đường và Trường Sa là cái gì đó khác, đầy bí hiểm và bị cả Chu Khứ Phi và Uông Đại Uyên coi là vùng nguy hiểm. Tàu thuyền bị cuốn vào "tam giác Bermuda" này đều mất tích và không bao giờ quay lại. ("Tam giác Bermuda" là vùng biển bao bọc bởi quần đảo Bermuda, Puerto Rico và Florida, nơi nhiều tàu thuyền và máy bay được cho là bị mất tích đầy bí hiểm, đặc biệt trong thập niên 40 - ND).

Một đoạn trích cuối cùng (và rất khác biệt) có thể được dẫn ra ở mục này. Đoạn trích này được rút ra từ "Nguyên sử". "Nguyên sử" được soạn ra vào thời nhà Minh nhưng nói về thời nhà Nguyên. Chương 162 của tài liệu này nói hạm đội xâm lược giương buồm tiến về đảo Java (người Mông Cổ - Nguyên Mông muốn chinh phục đảo này) đã đi qua "Thất Châu Dương" và "Vạn Lý Thạch Đường" - rõ ràng là quần đảo Hoàng Sa - và sau đó tiếp tục đi qua vùng biên (giới) giữa Bắc Kỳ và Champa. Từ cái nhìn về những hiểm nguy luôn luôn đi liền với Thạch Đường, người ta tự hỏi tại sao hạm đội Nguyên Mông lại không tránh xa vùng này. Tuy nhiên có lẽ không nên quá coi điều lưu ý này là chính xác; có thể họ đã lựa chọn tuyến đường này nhằm thể hiện khả năng kỹ thuật ngoại hạng và sức mạnh quân sự[12].

 

Xem tiếp phần 2: Roderik Ptak, CÁC ĐẢO Ở BIỂN ĐÔNG THEO CÁC TÀI LIỆU CỦA TRUNG QUỐC (từ đời Tống đến đời Minh)-Phần cuối

 


[1] Về những cuộc bàn luận ngắn về các tuyến đường này xin xem, ví dụ như Li Yukun, Tuyền châu Hải ngoại giao thông sử lược (Quanzhou haiwai jiaotong shilue), bộ Tuyền châu lịch sử văn hóa tùng thư (Quanzhou Lishi Wenhua congshu), Hạ môn: Hạ môn Đại học xuất bản xã (Xiamen: Xiamen Daxue Chubanshe, 1995) tr. 16-20, Phúc Kiến hàng vận sử (Fujian hangyun shi), Cổ, tân đại bộ phận (Gu, jindai bufen), bộ Trung Quốc Thủy vận sử tùng thư (Zhongguo  shuiyun shi congshu), Băc Kinh, Nhân dân giao thông xuất bản xã (Renmin jiaotong chubanshe, 1994), tr. 80-97; J.V.Mills, “Các nhà hàng hải Trung Hoa tại quần đảo Philippin và Inđônêxia (Insulinde) vào những năm 1500 sau Công nguyên”, Quần đảo 18 (1979), tr. 69-93. Về những bàn luận chi tiết về tuyến đường phía Tây, từ Việt Nam tới Trung Quốc, xin xem Pierre-Yues Manguin, “Người Bồ Đào Nha tại bờ biển Việt Nam và Champa. Nghiên cứu về các tuyến đường biển và các mối quan hệ thương mại dựa theo các tài liệu của Bồ Đào Nha (thế kỷ 16-17-18), bộ Các ấn phẩm của trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp 81 (Paris: Trường Viến Đông Bác Cổ Pháp, 1972) tr.171 và những trang tiếp theo, các bản đồ trong phụ lục.

[2] Xem “Trung Quốc cổ ký trung du quán Phi luật tân tư liệu hội biên” (Zhongguo guji zhong youguan Feilỹbin ziliao huibian) (Trung Hoa Thư cục, 1980) do Trung Sơn Đại học Đông Nam Á, Lịch sử nghiên cứu Sở (Zhongshan daxue Dongnanya Lishi yanjiusuo) xuất bản, các đoạn trong các trang 10, 12, 13, 16; tái bản “Từ Tuyền châu tới vùng biển Xulu và bên ngoài: Những vấn đề có liên quan từ đầu thế kỷ 14”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, 29/2 (1998), tr. 277 - 279.

[3] Có thể tìm thấy những đoạn trích về biển Nam Trung Hoa trong các tác phẩm của các nước Ả Rập, ví dụ như, G.R.Tibbetts, “Một nghiên cứu về các tác phẩm của các nước Ả Rập có các tư liệu về Đông Nam Á”, bộ, kho tài liệu dịch Phương Đông, N.S.44 (Leiden:E.J.Brill, 1979). Trướng Hải, một địa danh cổ của Trung Quốc dùng để chỉ một phần của biển Nam Trung Hoa, có mối liên hệ với một địa danh Ả Rập; xem, chẳng hạn như, Edward H.Schafer, “Con chim son. Nhà Đường hình dung về phương Nam” (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp California 1967) tr.138. - Trong các tài liệu của Việt Nam cũng có một só đoạn trích dẫn về biển Nam Trung Hoa; xem, ví dụ như, R. Dumoutier, “Nghiên cứu một hải đồ Việt Nam thế kỷ 15”, Tập san lịch sử địa lý và mô tả địa lý (1896); Võ Long Tê, “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa theo các tác phẩm lịch sử và địa lý Việt Nam cổ”(Sài Gòn, 1974). Có thể tìm thấy các đoạn trích khác trong những tác phẩm như “An Nam Chí Lược”. Tuy nhiên trong bài nghiên cứu này của tôi không bao gồm các tác phẩm của Việt Nam. Về cách giải thích của Trung Quốc với các đoạn trích của tài liệu Việt Nam, xin xem, ví dụ như, Chen Shijian “Việt Nam sơn ngự đối ngoạ Tây Sa, Nam Sa quần đảo, bộ phận tiêu đảo địa danh” (Yuenan shanzi dui wo Xisha, Nansha qundao, bufen jiaodao diming”) trong Quảng Đông tỉnh địa danh vi nguyên hội (Guangdong sheng diming weiyuan hui, xuất bản) Nam Hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên (Nanhai zhudao diming ziliao huibian) (Quảng Châu, Quảng Đông địa đồ xuất bản xã, 1987) tr. 545 - 552.

[4] Xin xem, ví dụ như, Khang Thái “Phù Nam Truyện” (thời Tam Quốc), được dẫn lại trong cuốn “Thái Bình Ngự lãm” của Lý Phỏng và những cuốn khác, bộ, “Quốc học cơ bản tùng thư”, 12 tập, (Đài Bắc: Tân Tinh Thư cục 1959), ii, j. 59, hồ sơ 3b (tr. 437d). Các ví dụ khác trong Liu Nanwei “Nam hải chư đảo cổ địa danh sơ đàm”, tr. 419, và trong Ju Jiwu “Nam hải chư đảo địa danh đắc sơ bộ nghiên cứu”, tr. 488-489, cả hai nằm trong “Nam hải chư đảo địa danh tư liệu hội biên”; Wang Yingjie; “Cổ đại Trung Quốc đối Nam hải chư đảo đảo tiêu địa lý nhân sĩ đắc phát triển”, trong  “Trung Quốc Khoa học viện Nam Sa tổng hợp khoa học khảo sát đội” (Bản tổng hợp của đội khảo sát khoa học ở quần đảo Nam Sa, Viện Khoa học Trung Quốc) (chủ biên), “Nam Sa quần đảo lịch sử địa lý, nghiên cứu truyện ký” (Quảng Châu: Trung Sơn Đại học xuất bản xã, 1991) tr. 138-140; Marwyn S.Samuels “Tranh luận về biển Nam Trung Hoa” (Newyork: Methuen, 1982), tr. 10-11.

[5] Tăng Công Lượng (Zeng Gong Liang), và tập thể tác giả, “Vũ Kinh Tổng Yếu”, bộ “Trung Quốc binh thư kế thừa” 3-5 (Bắc Kinh: Cát Phương Quân xuất bản xã; Thẩm Dương: Liêu Thẩm Thư xã, 1988), “Thiên kỷ” j.21, hồ sơ 16a (ii, 1053). Xusong (Công ty) “Tổng hội yếu di cảo” 8 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1957), Viii, ce 197, tr.7748b (“Phiên di” 4, Champa) 7763b (“Phiên di” 4 Zhenlifu); Vương Tượng Chi, “Dư địa kỷ thắng”, bộ “Tống đại địa lý thư tứ trung”, 2 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1963), ii, j.127, hồ sơ 2b (tr. 667d); “Phương dư thắng lãm”, Zhu Mu, 3 tập (Đài Bắc: Văn Hải xuất bản xã, 1981), ii, j.43, hồ sơ 6b (tr 908). Các đoạn trích trong hai cuốn vừa nêu hình như trở lại với cuốn “Quỳnh quản chí” (1203-1208) hiện đã thất lạc. Xin xem “Die Paracel - und Spratly - inseln in Sung - Yuan - und fruhen Ming - Texxten: Ein maritimes Grenzgebier?”, trong cuốn “Trung Quốc và các nước láng giềng: Các đường biên, quan điểm của các nước khác, chính sách đối ngoại, từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19”, bộ “Nam Trung Hoa và hàng hải châu Á 6” (Wiesbaden Harrassowits Verlag, 1997), đặc biệt tại các trang 162-165. Về cuốn “Quỳnh quản chí”, xem thêm Lý Mặc “Quảng Đông phương chí yếu lục” (Quảng Châu: Quảng Đông tỉnh địa phương chí biên soạn vi nguyên hội ban công chí, 1987), tr. 434.

[6] Tái bản., "Die Paracel - und Spratly - inseln” Về một nghiên cứu khảo cứu về thuật ngữ biên giới truyền thống (tuy nhiên, phần lớn đều thuộc giai đoạn Minh-Thanh) xin xem Bodo Wiethoff, “Chinas dritte Greuze - Der traditionelle chinesische Staat und der kšstennale Seeraun”, bộ Veroffentlichungen des ostsien-instituts des Ruhr-Universitat Bochum (Wiesbachen: Harrassowith Verlag, 1969).

[7] Almut Netolitzky, “Das lingwai tai-ta von Chou Ch’u-fei. Eine Landeskunde Sudchinas aus dem 12. Jahrhundert”, bộ Muchener Ostasiatische Studien 21 (Wiesbaden: Franz Steiner Verlag, 1977), tr. 16-17, 36; Joseph Needam và những người khác, “Khoa học và văn minh Trung Hoa” (Cambridge: tại NXB Đại học Tổng hợp, 1954-), iV:3, tr. 548-550; tái bản., “Sudostasieus Meere nach Chinesischen Quellen (Song und Yuan)”, “quần đảo” 56 (1998), tr. 9. - Về Nữ quốc chép trong các tác phẩm của Trung Quốc, xin xem, ví dụ như, Paul Pelliot, “Ghi chép về Marco Polo, tác phẩm xuất bản sau khi ông qua đời” 3 tập. (Paris: Nhà in Quốc gia, Nhà sách Adrian-Maisonneuve, 1959-1973), i, tr. 671-725.

[8] Friedrich Hirth và W.W.Rokhill (tr.), "Triệu Nhữ Quát và công trình của ông về giao thương giữa Trung Quốc và Ả Rập vào thế kỷ 12 và 13, tiêu đề: Chư Phiên Chí” (tái bản, Đài Bắc: Hãng xuất bản Thành Văn, 1970), tr. 176, 1985, chú thích số 4; Samuels, “Phản đối”, tr. 16; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 165.

[9] Xem tái bản.,”Sudostasiens Meere”, tr. 17 và các trang tiếp theo.

[10] Xem Uông Đại Uyên (tác giả), Su Jiqing (xb.) “Đảo di chí lược giao sử”, bộ “Trung ngoại giao thông sử ký tùng san” (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1981), tr. 318; tái bản., “Quang cảnh hàng hải Châu Á qua hai tác phẩm đời Nguyên: Đảo di chí lược và Dị vật chí”, Tạp chí nghiên cứu về đời Tống và đời Nguyên, 25 (1995), tr. 54, 55; tái bản., “Chú giải cuốn Đảo di chí lược của Uông Đại Uyên (1939/50)” trong Claudine Salmon (xb.), “Truyện kể về những chuyến đi Châu Á: Loài giống, tập tục, khái niệm về không gian. Báo cáo tại Hội thảo EFEO-EHESS tháng 12/1994”, bộ Chủ đề nghiên cứu 5 (Paris: Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, 1996), tr. 127-144; tái bản., “Die Paracel - und Spratly - inseln”, tr. 166-167. Về cuón “Lĩnh ngoại đại đáp”, xin xem chú thích số 7 trên đây. Chú ý: trong sách của Samuels có những cách giải thích sai, “Phản đối”, tr. 20.

[11] Về những vùng biển Thất Châu (Thất Châu Dương), xin xem, ví dụ như, những tiểu luận được sưu tạp trong cuốn “Nam hải chư đảo sử lược khảo chứng luận cứ” của Hàn Chấn Hoa (Bắc Kinh; Trung Hoa Thư cục, 1981).

[12] Tống Liêm, “Nguyên Sử”, 15 tập (Bắc Kinh: Trung Hoa Thư cục, 1976), Xiii, j.162, tr. 3802; Samuels, “Phản đối”, tr. 19; Jacques Dars, “Hàng hải Trung Quốc từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 14”, bộ “Nghiên cứu lịch sử hàng hải Trung Quốc 11, (Paris: Economica, 1992), tr. 342