NHỮNG KỊCH BẢN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT


Nhìn lại nỗ lực quản lý các tranh chấp Biển Đông, giờ chúng sẽ tập trung vào các kịch bản giải quyết khác nhau. Vấn đề Biển Đông khó giải quyết vì nhiều bên liên quan và các yêu sách lãnh thổ chồng lấn đã lên đến đỉnh điểm. Trọng tài quốc tế không thể đưa ra một một kịch bản có khả năng giải quyết các tranh chấp. Tất cả các bên yêu sách đều lặp lại tuyên bố chủ quyền của mình và họ không hề muốn nhượng bộ trong những yêu sách lãnh thổ. Các quốc gia đã từ chối thảo luận vấn đề quyền tài phán trên các đảo và đưa các yêu sách chồng lấn của mình lên Tòa án Pháp lý Quốc tế (ICJ) hay Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS). Điều này có thể trái ngược hẳn với những tranh chấp lãnh thổ khác ở Đông Nam Á. Ví dụ, tháng 11 năm 2007, Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a đã đệ trình những yêu sách lãnh thổ của họ đối với đảo Petra Branca/Pulau Batu Puteh lên ICJ nhờ trọng tài quốc tế phân xử. Kết thúc 28 năm tranh chấp lãnh thổ, tòa xử vào tháng 5 năm 2008 đã ủng hộ Xin-ga-po nhưng quyết định trao hai bãi nhỏ hơn, gọi là Middle Rocks, cho Ma-lai-xi-a.

Không có cách giải quyết pháp lý rõ ràng nào cho những yêu sách xung đột nhau ở Biển Đông. Leni Stenseth nhận thấy rằng “dường như không bên yêu sách nào có cơ sở pháp lý rõ ràng và vai trò của luật quốc tế trong giải quyết tranh chấp có vẻ còn hạn chế.”[1] Trung Quốc và Đài Loan có những yêu sách lịch sử rộng nhất ở Biển Đông. Tuy nhiên, trong khi nguyên tắc lịch sử và sự phát hiện đầu tiên có thể tạo cơ sở cho lập trường của một bên tranh chấp, luật quốc tế đã cho thấy những nguyên tắc đó chưa đủ để xác định chủ quyền. Thay vào đó, danh nghĩa ban đầu do nguyên tắc phát hiện xác lập phải được bổ xung bằng việc liên tục sử dụng và chiếm giữ một vùng lãnh thổ. Thậm chí danh nghĩa có được do chiếm giữ có thể thay thế những yêu sách lịch sử.[2] Thêm vào đó những yêu sách của Trung Quốc là khó chứng minh, bởi vì truyền thống Nho giáo cho rằng lãnh thổ được thể hiện bằng những vùng ảnh hưởng hơn là  đường biên giới rõ ràng.[3]

Bản thân UNCLOS không thể được áp dụng để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ đang tồn tại.  Trong những trường hợp như vậy, UNCLOS quy định “các quốc gia có những yêu sách chồng lấn phải giải quyết những yêu sách của họ bằng đàm phán một cách có thiện chí”[4] tuy nhiên không có những ranh giới trên biển rõ ràng ở hầu hết các vùng ở Biển Đông và một số bên yêu sách thậm chí đã không xác định được những yêu sách chính xác của mình. Vì vấn đề dầu mỏ đang trở nên cấp thiết, không một chính quyền nào dám mạo hiểm từ bỏ các lợi ích quốc gia trong khu vực. Thay vì làm đơn giản hóa vấn đề,  UNCLOS đã có tác động làm phức tạp và căng thẳng thêm các tranh chấp này.

Điều nghịch lý là việc giải thích chặt chẽ UNCLOS có thể ngăn cản hầu hết các điểm đảo có được một vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), vì thế hạn chế những vùng có thể có các tuyên bố chồng lấn. Khoản 121, đọan 3 nói rằng, “Các đảo đá mà không thể duy trì nơi cư trú hay đời sống kinh tế cho con người sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa”;[5] thay vào đó các đảo đá này chỉ được phép có lãnh hải 12 hải lý. Tuy nhiên không có những chỉ dẫn cụ thể để phân biệt giữa đá và đảo. Những hạn chế đó đã mở đường cho các bên yêu sách tranh chấp và khai thác. Ngoài sự bàn cãi xung quanh cái gì cấu thành một hòn đảo, việc dùng thềm lục địa để yêu sách lãnh thổ cũng gặp rắc rối tương tự. Dù nhiều bên yêu sách đã lấy lý do thềm lục địa kéo dài để biện minh cho quan điểm của mình, điều này vẫn “không đủ cơ sở pháp lý để yêu sách các hòn đảo”[6]. Những vùng biển được xác định theo UNCLOS có thể mang lại quyền khai thác tài nguyên, nhưng không mang lại chủ quyền cho bản thân các hòn đảo trong đó. Cuối cùng, không có điểm nào ở cả Quần đảo Trường Sa (A: Spratlys Islands, TQ: Nansa/Nam Sa – nd hay ) hay Quần đảo Hoàng Sa (A: Pracels Islands,  QT: Xisha/Tây Xa - nd) cách nhau 200 hải lý. Điều này có nghĩa là vùng đặc quyền kinh tế mà các bên tranh chấp yêu sách chắc chắn chồng lấn lên yêu sách của một vài bên khác, làm tăng nguy cơ xung đột.

MỘT BIỆN PHÁP KHẢ THI TRONG TƯƠNG LAI


Căn cứ vào sự phức tạp của những yêu sách, các đề xuất dự định để giải quyết tranh chấp Biển Đông chủ yếu tập trung vào thăm dò và khai thác chung kết hợp với gác lại vấn đề chủ quyền. Cách tiếp cận này thường được xem là lựa chọn khả thi nhất để tăng cường hợp tác và ổn định khu vực. Hiệp ước Timor Gap giữa Úc và In-đo-nê-xi-a, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gap Treaty) giữa Trung Quốc và Việt Nam và các hiệp định song phương đang tồn tại trong phân định ranh giới biển được xem như những hình mẫu để đưa ra một kế hoạch cùng thăm dò và khai thác cho Biển Đông.

Các tập đoàn dầu khí nhà nước của Trung Quốc, Việt Nam, Phi-líp-pin đã ký Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung (JMSU) như một hiệp định thương mại để tiến hành một số cuộc khảo sát trước khi thăm dò trong một số vùng ở Trường Sa (A: Spratlys, QT: Nansha/Nam Sha - nd). Ban đầu, thỏa thuận chỉ bao gồm Trung Quốc và Phi-lip-pin trước khi Việt Nam quyết định tham gia vào năm 2005. Việc ký kết thỏa thuận đảm bảo cho Ma-ni-la và Hà Nội ít nhất có mặt trong quá trình thăm dò tại khu vực mà họ có những yêu sách chủ quyền chồng lấn với Bắc Kinh. Thỏa thuận được ký giữa các tập đoàn dầu khí hơn là giữa các chính phủ, điều này đã làm đơn giản hóa quy trình. Tuy nhiên sau khi nó được ký kết năm 2005, các phe đối lập ở Phi-lip-pin đã chỉ trích cam kết như một dấu hiệu rằng chính phủ muốn giảm đi những yêu sách của quốc gia này trong các vùng lãnh thổ tranh chấp. JMSU (Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung) cuối cùng hết hiệu lực vào ngày 30 tháng 8 năm 2008. Việc gia hạn thỏa thuận đã bị chỉ trích nhiều hơn do những cáo buộc tham nhũng liên quan đến các khoản cho vay của Trung Quốc để ký kết hiệp định ban đầu.[7] Thậm chí nếu một kế hoạch thăm dò và khai thác chung cho Biển Đông được đàm phán thành công, sự chênh lệch quá rõ về sức mạnh và việc thiếu một thỏa thuận tổng thể về các vấn đề chủ quyền của các quốc gia ven bờ có thể vẫn đẩy các bên yếu hơn vào tình trạng bấp bênh trong trường hợp những điều kiện kinh tế thay đổi hay phát sinh những tình huống chiến lược. Kết quả là một kế hoạch phát triển chung như vây chỉ có thể thành công nếu được đặt trong và bổ sung cho một cơ chế quản lý hợp tác rộng hơn. Trong điều kiện chưa chuẩn bị kỹ lưỡng, sự chênh lệch quá mức về sức mạnh này có thể vẫn đặt các bên yếu hơn trong tình trạng bấp bênh. Nếu không có một cấu trúc pháp lý và những cơ chế rộng hơn thì kế hoạch khai thác chung sẽ chỉ tái khẳng định những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc do sự phân bố sức mạnh không đều ở Biển Đông. Các bên yêu sách Đông Nam Á chỉ có mặt trong quá trình thăm dò ở những khu vực mà họ có những yêu sách lãnh thổ chồng lấn với Bắc Kinh. Trong phạm vi JMSU, Valencia khẳng định rằng việc khảo sát chung có hại cho Phi-lip-pin, vì nó bao gồm khu vực thềm lục địa hợp pháp của Phi-lip-pin mà Trung Quốc và Việt Nam không yêu sách. Hơn nữa thỏa thuận đã tạo ra tính chính danh để Trung Quốc yêu sách một cách không hợp pháp khu vực đó ở Biển Đông.”[8]

Tóm lại, việc ký kết một kế hoạch thăm dò và khai thác chung sẽ cần phải được tiến hành trước bằng việc đàm phán một khuôn khổ để gác lại những yêu sách lãnh thổ hiện tại, thiết lập một quy tắc ứng xử chặt chẽ, điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia khu vực và quản lý các tranh chấp hiện tại và tiềm tàng. Việc thiết lập một khuôn khổ như vậy có vẻ không giống với một hiệp định thông thường. Thật vậy, sự bế tắc của những yêu sách lãnh thổ đan xen với chính trị dân tộc chủ nghĩa vẫn là một chướng ngại lớn trong việc quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông.

PGS. Ralf Emmers, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore

Người dịch: Nguyễn Văn Bình

Hiệu đính: Đỗ Thị Thủy

Bản gốc tiếng Anh “The prospects for managing and resolving conflict in the South China Sea tạp chí Harvard Asia Quarterly chủ đề “The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia” tháng 12/2010. 

Đề nghị chỉ được dẫn đường link mọi thông tin, bài viết  trên www.nghiencuubiendong.vn, không đăng lại khi chưa có sự đồng ý của Ban Biên tập NCBĐ

 



[1] Leni Stenseth, Nationalism and Foreign Policy – The Case of China’s Nansha Rhetoric (Disertation submitted to the Department of Polictical Sience, University of Oslo, 1998), 10.

[2] Bob Catley và Makmur Keliat, Spratlys: The Dispute in the South China Sea (Aldershot, UK: Ashgate Publishing, 1997), 35.

[3] Joshua P. Rowan, “The U.S.-Japan Security Alliance, ASEAN, and the South China Sea Dispute,” Asia Survey 45-3 (2005): 426.

[4] Erik Kreil, “Energy Issues in the South China Sea Region,” in Cooperation Monitoring in the South China Sea, ed. John C. Baker and David G. Wiencek (Westport, CT: Praeger, 2002), 38.

[5] Xem Khoản 121 (3) phần phụ lục và phụ đề Công ước về luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982.

[6] Leszek Buzynski và Iskandar Sazlan, “Maritime Claims and Energy Cooperation,” Comtemporary Southeast Asia 29-1 (2007):147.

[7] Ian Storey, “Trouble and strife in the South China Sea Part II: the Philipines and China,” China Brieaf [The Jame Town Foundation] 12-9, ngày 28 tháng 4 năm 2008, 6.

[8] Xem Valencia, “In Response to Robert Backman”.