Dù chỉ là một đảo rất nhỏ nằm cách thủ đô khoảng 1.770 km về phía Nam và có địa chỉ bưu điện ở Tôkyô, đảo Okinotori của Nhật Bản trở thành điểm tranh chấp đối với Trung Quốc. Trung Quốc từ chối coi Okinotori là một hòn đảo và thay vào đó, họ gọi nó là đá san hô vòng, đá san hô ngầm, hay đơn giản là tảng đá. Làm như vậy, Trung Quốc hy vọng ngăn cản dự định của Nhật Bản tạo nên vùng đặc quyền kinh tế ở nơi đó. Tranh chấp về đảo Okinotori, mà người Nhật gọi là Okinotorishima vẫn dai dẳng vì nó liên quan đến quan ngại chiến lược và chủ quyền đối với tài nguyên dưới đáy biển trong một vùng có diện tích gần tương đương với tổng số diện tích đất liền của bốn đảo chính của Nhật Bản.

Tại một hội nghị về phát triển tài nguyên dưới đáy biển được tổ chức ở Đại học Kyushu vào tháng 12/2009, những chuyên gia từ Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc có đề cập đến đáy biển giàu chất kim loại côban và mănggan chung quanh Okinotori. Dù Trung Quốc cũng thường nhắc đến “tài nguyên thiên nhiên phong phú” trong vùng nhưng các chi tiết không được biết đến. Ở Hội nghị Biển Đông Á tại Manila vào tháng 11/2009, đệ trình của Nhật Bản lên Ủy ban Giới hạn thềm lục địa của Liên Hợp Quốc (CLCS) vào tháng 3/2009 được đem ra bàn thảo. Hồ sơ này đề cập đến bảy vùng biển giữa Nhật Bản và Philíppin bao gồm 740.000 km 2 . Ngoài khả năng tranh chấp chung với Mỹ và Cộng hòa Palau không liên quan đến Okinotori, Nhật Bản phải giáp mặt với cả Trung Quốc lẫn Hàn Quốc, hai quốc gia đệ đơn trình lên CLCS vì những hành động của Nhật Bản ở đảo Okinotori. Khi Đảng Dân chủ Nhật Bản dẫn đầu bởi Thủ tướng Yukio Hatoyama lên cầm quyền năm 2009, họ tuyên bố ngay lập tức là Nhật Bản sẽ bỏ ra 7 triệu USD vào năm 2010 để xây một căn cứ trên đảo Okinotori với hy vọng thiết lập một thế đứng nữa trên đảo. Ngân khoản này trông có vẻ như là một số tiền lớn, nhưng nó chỉ đại diện cho dưới 3% tổng số mà Nhật Bản đã chi phí từ trước đến nay để duy trì hòn đảo xa xôi này. Trong hai thập niên vừa qua, Nhật Bản đã chi tiêu hơn 200 triệu USD.

Nhật Bản hiện nay ở trong tình trạng biết ơn Việt Nam , dù một cách gián tiếp. Trong thời gian này, Việt Nam đang vạch trần những mâu thuẫn khác lạ mà họ đã khám phá trong trường hợp Trung Quốc đối với Nhật Bản. Việt Nam, cùng với các quốc gia Đông Nam Á khác đang có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Trung Quốc trong vùng Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa). Tháng 5/2009, Việt Nam trình lên CLCS bản đăng ký thềm lục địa mở rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở trong vùng phía Bắc Biển Đông. Việt Nam và Malaixia cũng trình lên CLCS bản đăng ký chung về thềm lục địa mở rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở trong vùng phía Nam Biển Đông. Bản đăng ký của Việt Nam và bản đăng ký chung của Việt Nam và Malaixia có trước khi Quốc hội Nhật Bản phê chuẩn một đạo luật trong năm 2010 cho phép chính phủ trung ương quản trị và kiểm soát đảo Okinotori và xa hơn nữa, đảo Minamitori về phía Đông Nam của Tôkyô, xa hơn đảo Okinotori khoảng 290 km.

Nhật Bản công bố chủ quyền trên đảo Okinotori, còn được gọi là Đảo San hô Douglas hay Parece Vela vào năm 1931 như là một phần của làng Ogasawara thuộc về địa phận Tôkyô, và chính thức đặt tên đảo là Okinotorishima. Giáo sư Peter Dutton của Viện Hàng hải học Trung Quốc thuộc Đại học Hải quân Mỹ cho biết “Việc Nhật Bản khai thác vùng đặc quyền kinh tế và hải phận chung quanh đảo Okinotorishima được dựa trên vài yếu tố. Thứ nhất, các học giả Nhật Bản xác nhận Okinotorishima là một đảo hội đủ điều kiện theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) như là vùng đặc quyền kinh tế và hải phận ở điểm có tồn tại các hoạt động kinh tế mặc dù diện tích trông có vẻ không rộng hơn 10 m 2 khi thủy triều lên cao. Trong tình trạng hiện tại của luật quốc tế, lý lẽ này cùng lắm chỉ nhận được sự ủng hộ một cách yếu ớt. Chính phủ Nhật Bản dường như nhận ra điều này và bắt đầu tìm một căn bản pháp lý thứ nhì, đó là Nhật Bản đã có những liên hệ lịch sử lâu đời trên đảo Okinotori, các vùng biển kế cận, và những tài nguyên dưới đáy biển chung quanh. Theo quan điểm của Nhật Bản, những liên hệ này đã tích tụ theo thời gian để trở thành quyền lợi được pháp luật bảo vệ”.

Trung Quốc dựa vào Điều 121 của UNCLOS định nghĩa đảo là “khu đất được hình thành một cách tự nhiên, bao quanh bởi biển, và ở trên mặt nước khi thủy triều lên cao”. Theo điều khoản này, Trung Quốc xem Okinotori như là một tảng đá - đá không thể duy trì sự cư trú của con người hay đời sống kinh tế - vì một tảng đá tự nó không thể được dùng để xác lập vùng đặc quyền kinh tế hay sự tiếp nối của thềm lục địa trong vùng biển tương đối nông. Với hành động như thể là một pháp nhân theo UNCLOS, Trung Quốc bỗng dưng mở ngỏ cửa cho Việt Nam , và Việt Nam chớp lấy ngay cơ hội.

Tầm quan trọng chiến lược của đảo Okinotori không thể không gây chú ý vì nó nằm tại trung điểm của đường hàng hải giữa hai căn cứ quân sự Mỹ khổng lồ trên đảo Guam và Đài Loan. Trong khi quyền lợi chiến lược đối nghịch của Trung Quốc và Nhật Bản đưa đẩy vụ tranh chấp này, nhu cầu lưu thông hàng hải tự do của Trung Quốc càng ngày càng gia tăng. Giáo sư Dutton nói: “Trung Quốc hay dùng tiểu xảo pháp lý để phi hợp thức hóa các chiến dịch quân sự ngoại quốc trong vùng đặc quyền kinh tế ở các quốc gia duyên hải. Trung Quốc chống đối những hoạt động quân sự của Mỹ được dựa trên quan điểm pháp luật này. Mặt khác, trong khi lực lượng hải quân của họ đã gia tăng trong hai thập niên qua, chiến lược làm chủ khu vực Đông Á trong lúc khủng hoảng cũng thay đổi. Trong thời gian khủng hoảng, Trung Quốc có tham vọng thách thức các lực lượng hải quân bên ngoài để giành kiểm soát vùng biển giữa chuỗi đảo thứ nhất và thứ nhì.” (Chuỗi đảo thứ nhất bao gồm Hoàng Hải, Đông Hải và Nam Trung Hoa. Chuỗi đảo thứ nhì bao gồm Biển Nhật Bản, Philíppin và Inđônêxia).

Nói ngắn gọn, điều này đẩy Trung Quốc vào một vị trí khó xử. Giáo sư Dutton nói: “Để phù hợp với yêu cầu Mỹ chấm dứt mọi hành động quân sự trong và ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ không thể thi hành những hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản chung quanh đảo Okinotori. Vì lý do đó, để bảo vệ quyền lợi an ninh của họ, Trung Quốc từ chối công nhận chủ quyền của Nhật Bản. Trước nước cờ của Việt Nam, mục đích chính của Nhật Bản là lịch sự làm ngơ những phản đối của Trung Quốc, và điều tiên quyết là bảo đảm làm cách nào để đảo Okinotori không chìm dưới biển.

Nhà nghiên cứu thâm niên tại Trung tâm Reischauer về Đông Á ở Oasinhtơn, Yukie Yoshikawa cho biết “Bản chất của vụ tranh chấp không thay đổi. Nhật Bản đang trồng san hô trên đảo Okinotori để giữ tình trạng ‘đảo’, trong khi Trung Quốc tiếp tục chỉ trích và khẳng định đó chỉ là ‘tảng đá’ để không cho Nhật Bản thiết lập vùng đặc quyền kinh tế”. Trồng san hô chỉ là một trong những biện pháp mới nhất của Nhật, nó bao gồm đổ hàng tấn xi măng trị giá 280 triệu USD để bọc hai đảo con và dùng lưới bằng kim loại titan trị giá 50 triệu USD để bao chúng lại. Vào năm 2005, Nhật Bản dựng một tấm biển to ghi địa chỉ để ai đặt chân lên đảo cũng biết ngay là mình đến “Số 1, Đảo Okinotori, Làng Ogasawara, Tỉnh Tôkyô”. Ngay sau khi tấm biển được dựng lên, Thống đốc Tôkyô, ông Shintaro Ishihara được chụp ảnh đang phất cờ và hôn tấm biển. Lúc đó ông có đeo áo phao nổi. Wang Hanling, một chuyên gia về môn hàng hải và luật quốc tế tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc nói “Nếu cố gắng của Nhật Bản thành công, những quốc gia khác sẽ không được phép đánh cá hay chia sẻ tài nguyên thiên nhiên trong vùng mà hiện nay được xem như là hải phận quốc tế. Ngoài ra, đối với những quốc gia láng giềng như Trung Quốc và Hàn Quốc, tự do đi lại trên biển của các tàu bè dọc theo những hải trình chính trong vùng sẽ bị cản trở. Điều đó sẽ tạo ra rủi ro cho an ninh quốc gia của họ”.

Khi đối phó với Nhật Bản, đôi khi Trung Quốc còn nêu lên vấn đề công bằng. Jin Yongming, một nhà nghiên cứu tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Thượng Hải nói “Sự công nhận chủ quyền của Nhật Bản trên đảo Okinotori nằm giữa Đài Loan và Guam là nhằm vào vị trí có tính chiến lược quan trọng cho lợi ích của Nhật Bản. Nhưng nước cờ này gây tổn hại đến quyền lợi trên biển của các quốc gia khác trong vùng biển chung quanh đảo Okinotori, và điều này đi ngược lại với nguyên tắc công bằng”.

Lý do tại sao Trung Quốc bắt đầu nhận thức ra là thái độ của họ trong trường hợp này có thể có tác động ngược càng trở nên rõ ràng. Việt Nam vẫn khẳng định có chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, trong khi Trường Sa, Trung Quốc gọi là Nam Sa đều bị Trung Quốc, Việt Nam, Philíppin, Brunây và Malaixia tuyên bố chủ quyền. Vào đầu năm 2009 hoặc có thể trước đó, Việt Nam bắt đầu phá đổ lập luận “đá san hô và đảo” được Trung Quốc đưa ra cho là theo đúng thủ tục UNCLOS trong vụ chống đối Nhật Bản. Việt Nam dường như muốn nói “Trung Quốc, đang đi ngược lại chính điều mà họ đang tranh cãi về chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông”.

Theo quan điểm của Việt Nam , lúc thì Trung Quốc bảo Okinotori không thể có vùng đặc quyền kinh tế hay dùng để xác định thềm lục địa mở rộng vì nó là đảo san hô vòng, đá san hô ngầm, hay tảng đá và không có một đời sống kinh tế tự lập. Nhưng lúc khác, Trung Quốc lại cho “những quần đảo” ở Biển Đông tất cả đều có đời sống kinh tế tự lập để họ có thể bào chữa cho đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mở rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở bao gồm 80% diện tích Biển Đông. Tất cả đều không đúng, hay không đến mức giới hạn mà nó cho phép Trung Quốc tiếp tục con đường họ đang đi. Chủ quyền của các đảo trong Biển Đông thật ra không phải là điều thiết yếu cho kết cục vì Việt Nam cho rằng “Không một quốc gia nào có thể yêu sách chủ quyền trên 80% diện tích Biển Đông dựa trên lời tuyên bố có chủ quyền trên các đảo này”.

Nói cách khác, nếu nhìn kỹ, ai cũng có thể khám phá hàng chục Okinotori bé nhỏ rải rác khắp Biển Đông. Trung Quốc chỉ hy vọng là thế giới còn lại – hay ít ra phần thế giới còn lại đang theo dõi Trung Quốc tranh chấp với Nhật Bản - sẽ làm ngơ. Dutton cho biết “Dường như Việt Nam đang đánh tiếng là họ sẽ hài lòng nếu có chủ quyền trên các đảo và sẽ để cho hầu hết Biển Đông làm vùng biển quốc tế. Ẩn ý trong quan điểm của Việt Nam là họ được củng cố chủ quyền của họ trong khi Trung Quốc không có, và hầu hết Biển Đông sẽ tiếp tục để cho tất cả các quốc gia đến đánh cá hay khai thác tài nguyên dưới đáy biển. Điều này không phải là chủ đích đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông của Trung Quốc”.

Trong cùng thời điểm, nếu Trung Quốc đang cố gắng phản công sách lược thông minh của Việt Nam thì cố gắng của họ không được hiệu quả cho lắm. Thật ra, ở đây, Trung Quốc có vẻ đang làm ngơ Việt Nam . Dutton nói tiếp “nỗ lực của Trung Quốc tạo thêm khó khăn cho họ khi mà Bắc Kinh vẫn chưa bắt đầu giải quyết tranh chấp một cách công khai”. Quyết định của Bắc Kinh xây một khu nghỉ mát hạng sang trên quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông cũng không giúp được gì. Yoshikawa nói “đầu tháng Giêng 2010, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc hủy dự án mà họ cho là tạo nên căng thẳng và làm tình hình thêm phức tạp”.

Trung Quốc rất nỗ lực trong những vấn đề hàng hải khác dù vấp phải bất cứ chống đối nào. Điển hình là mới đây, Trung Quốc hoàn tất 13 cơ sở trên đảo và rặng san hô ở Đông Hải trong quá trình bành trướng và phát triển vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn. Một ngọn hải đăng mới trên đảo Waikejiao là một công trình sau cùng. Yoshikawa nói tiếp: “Vì Nhật Bản và Trung Quốc có khuynh hướng nhìn ngoại giao theo khía cạnh quan hệ - hơn là theo chính sách dựa trên các sự kiện như của Oasinhtơn - nếu hai quốc gia hòa thuận, điều đó có thể đúng trong lúc này, vấn đề Đảo Okinotori sẽ được dàn xếp để mối quan hệ của họ không bị xấu đi”. Không chắc Nhật Bản sẽ chịu bất cứ một hậu quả nào trong khi tiếp tục những dự tính của họ về Okinotori.

Tuy nhiên, không cần biết có làm Nhật Bản khó chịu hay không, Trung Quốc có một lý do hợp lý để kiên trì trong nỗ lực của họ ở đây. Dutton kết luận “Trung Quốc không làm gì được trước khẳng định chủ quyền của Nhật Bản trong khi chính họ lại khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Tuy nhiên, Trung Quốc có thể vẫn tiếp tục phản đối một cách khéo léo nhằm duy trì tự do hành động quân sự trong vùng biển chung quanh Okinotori"./.

 

Tin tham khảo đặc biệt 16/03/2010