Tại cuộc điều trần diễn ra ở trụ sở Quốc hội Mỹ, những người tham dự đã đưa ra nhiều bằng chứng về các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông cùng những hệ quả đối với các chiến lược và an ninh của Mỹ. Ngoài ra, họ còn bàn đến mối lo ngại của các nước kề cận Trung Quốc đối với các vấn đề liên quan đến việc nước này ngày càng sử dụng vũ lực đe dọa để làm hậu thuẫn cho các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ của họ ở Biển Đông.

Tiến sĩ Richard Cronin, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Henry L. Stimson, nói: "Trung Quốc đang ngày càng khẳng định, thậm chí còn khiêu khích các nước láng giềng về các vấn đề trên biển. Đặc biệt là vùng Biển Đông". Ông Cronin cho rằng dường như Trung Quốc đang quay trở lại lập trường trước năm 1995, khi họ chọn hành động quân sự để làm hậu thuẫn cho các tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ của mình ở vùng Biển Đông.

Tiến sĩ Andrew Scobell thuộc trường Đại học Texax A&M (TAMU) nói: "Kể từ thập niên 50, Trung Quốc từng công bố hầu hết vùng biển Đông là hải phận của họ". 

Bronson Percival, từng là nhà ngoại giao đồng thời là giáo sư tại U.S. Naval War College, hiện đang nghiên cứu tại Trung tâm Phân tích Hải quân (Center for Naval Analyses - CNA), nói: "Từ cuối năm 2007, hải quân Trung Quốc tăng cường việc tuần tra trên biển, gây áp lực đối với các công ty khai thác năng lượng nước ngoài, buộc họ phải đình chỉ các hoạt động tại các vùng biển còn đang tranh chấp. Không những thế còn tiến hành các bước để chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lại còn đơn phương áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá trên một số nơi thuộc vùng biển này". Ông Percival nói Trung Quốc từng tuyên bố giải quyết việc tranh chấp trên Biển Đông là "vấn đề song phương", có nghĩa là giữa Trung Quốc và một nước yếu hơn, không thể giải quyết bằng "cơ chế đa phương".

Năm 2009, Trung Quốc đã có những hành động rất hiếu chiến đối với các tàu hải quân Mỹ. Tháng 3/2009, tàu Impeccable của hải quân Mỹ chạy trong vùng Biển Đông, dù đang chạy trên hải phận quốc tế, vẫn bị các tàu hải quân Trung Quốc can thiệp, yêu cầu phải rời khỏi khu vực này nếu không "sẽ phải hứng chịu hậu quả". Nghị sĩ Dana Rohrabacher (Đảng Cộng hòa, tiểu bang
California) dẫn chứng. Một vụ việc tương tự đã xảy ra vào tháng 6 với tàu khu trục USS John S. McCain.

 

Nghị sĩ Rohrabacher nói: "Không thể có nhầm lẫn nào về ý nghĩa của các hoạt động này. Trung Quốc đang gửi tín hiệu đi một cách hiếu chiến thông qua các hành động của họ, nhằm tuyên bố sự thống trị và kiểm soát của nước này đối với vùng biển Đông". Robert Scher, Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng, cũng tuyên bố: "Chúng tôi cực lực phản đối kiểu hành xử gây rủi ro đối với sự an toàn cho các tàu chúng ta trên biển. Đó là sự vi phạm trắng trợn các thông lệ quốc tế về lối hành xử trong vùng biển nằm ngoài các vùng lãnh hải". Ông khẳng định Mỹ bác bỏ bất cứ nỗ lực nào nhằm hạn chế tự do của các vùng biển nằm trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Gần 40% diện tích của các đại dương trên thế giới nằm trong phạm vi 200 hải lý của các EEZ. Do đó, phải bảo vệ các quyền hàng hải. Ông Scher cho rằng đó là vì lợi ích của nền kinh tế toàn cầu và hòa bình quốc tế.

Nghị sĩ Rohrabacher nói: "Mặc dù không có sự đe dọa về quân sự rõ ràng nào đối với Trung Quốc, họ vẫn đang xây dựng một lực lượng quân đội khổng lồ". Ông đề cập đến các tên lửa chống vệ tinh và tên lửa đạn đạo chống tàu thuyền mà Trung Quốc đang phát triển với ý đồ ngăn chặn khả năng chúng ta đến trợ giúp các nước đồng minh trong khu vực.

 

Larry M. Wortzel, người đứng đầu USCC, cũng là đồng chủ tọa cuộc điều trần này cho rằng tiềm năng hải quân ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc được coi là mối đe dọa tiềm tàng đối với các nước tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc như Việt Nam, Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Philíppin và Đài Loan. Ông cho biết trong chuyến viếng thăm của đại diện USCC đến Việt Nam vào tháng 12/2009, họ từng một vài lần nghe nói về mối lo ngại của nước này đối với sự khẳng định của Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Nó liên quan đến những nơi mà hai nước này cùng tuyên bố chủ quyền.

 

Các thành viên tham gia buổi điều trần này đều cho rằng Mỹ nên tăng cường tham gia vào khu vực tranh chấp và giữ vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự thống lĩnh của Trung Quốc ở vùng Biển Đông, bảo đảm an toàn cho sự qua lại tự do của hải quân Mỹ và các nguồn cung cấp năng lượng.

Vào những năm 1990, các nước ASEAN vô cùng hoang mang khi chú ý đến những điều Trung Quốc có thể làm, đặc biệt liên quan đến các lãnh thổ thuộc về Biển Đông (còn gọi là Biển Nam Trung Hoa) mà nước này từng tuyên bố thuộc về chủ quyền của họ. Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á của Heritage Foundation, đưa ra các ví dụ về hành động chống đối của Trung Quốc đối với Philíppin về quần đảo Trường Sa đang bị tranh chấp và cuộc khủng hoảng tên lửa vào các năm 1995-1996 tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, Trung Quốc quay ngược lại hình ảnh của mình bằng việc bắt đầu một cuộc "tấn công mê hoặc" (charm offensive), trở nên lý tưởng hơn, đồng thời nhấn mạnh quan hệ thương mại hơn là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ đối với các nước trong ASEAN.

Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á đang tăng lên hàng năm và có nhiều khả năng còn tăng hơn nữa theo Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc - Đông Nam Á (CAFTA) có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và 10 nước Đông Nam Á đã đạt được 193 tỷ USD năm 2008, vượt qua con số giữa Mỹ với các nước này là 181 tỷ USD. Điều này khiến Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của ASEAN sau Liên minh châu Âu (EU) và Nhật Bản. Giáo sư Donald E. Weatherbee, giảng dạy tại Đại học Nam Carolina, nhận xét: "Về chiều rộng của thị trường, CAFTA chỉ đứng sau EU và Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ (NAFTA). 

Walter Lohman nói: "Ban thư ký của ASEAN cho biết kể từ năm 2003 buôn bán giữa các nước Đông Nam Á với Trung Quốc duy trì mức tăng trưởng bình quân 26% mỗi năm". 

Giáo sư Weatherbee nói: "Có thể trông đợi thương mại của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn so với các đối tác thương mại khác của ASEAN... Trung Quốc hiện đã là đối tác thương mại lớn nhất của Malaixia và Việt Nam và lớn thứ hai của Philíppin, Thái Lan, Xinhgapo, Mianma. 

Thương mại gia tăng đều được các nước Đông Nam Á hoan nghênh, nhưng vị trí áp đảo của Trung Quốc ở châu Á lại khiến cho các nước này phải dè chừng về động cơ của Trung Quốc. Đồng NDT bị định giá thấp hơn thực tế nhưng Trung Quốc không muốn định giá lại nó. Giáo sư Weatherbee nói: "Xuất khẩu của các nước Đông Nam Á kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế và nhập khẩu của Trung Quốc, mà sẽ tăng lên với CAFTA, có tính cạnh tranh cao hơn trong các thị trường nội địa của Đông Nam Á. Việt Nam đã thấy cần phải giảm giá đồng tiền của họ và các nước Đông Nam Á khác, đặc biệt là Thái Lan có thể sẽ phải làm theo". Ông cũng nói rằng có những tiếng nói tại Inđônêxia, thị thường lớn nhất ASEAN, lo ngại rằng nhập khẩu từ Trung Quốc rẻ hơn sẽ dẫn đến một số lớn người mất việc làm trong các khu vực công nghiệp, nông nghiệp và ngư nghiệp.

Các quan chức tham dự cuộc điều trần đều nói về tầm quan trọng của vùng biển khu vực Đông Nam Á đối với Trung Quốc và các nước phải phụ thuộc vào việc đi lại trên Biển Đông. Phó trợ lý Ngoại trưởng Mỹ David B. Shear nói: "Đường vận tải biển chạy qua vùng biển các nước Đông Nam Á nằm trong số những vùng tấp nập và có tầm quan trọng chiến lược nhất trên thế giới... Năm ngoái, 90% lượng dầu nhập cảng của Trung Quốc đã đi qua eo biển Malacca".

 

Tuy nhiên những người tham dự cuộc điều trần cho rằng Mỹ thiếu chiến lược rõ ràng đối với khu vực này. Tiến sĩ Ellen Frost làm việc tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson (Peterson Institute for International Economics) dẫn chứng: "Hầu hết chính phủ các nước Đông Nam Á đều tha thiết muốn có sự tham gia sâu rộng hơn của Mỹ. Dưới thời George W. Bush, ông ta chỉ quan tâm đến cuộc chiến tranh chống khủng bố, không quan tâm đến nhu cầu của các nước Đông Nam Á". Chính quyền Obama hiện nay đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới và mở rộng sự tham gia của Mỹ vào khu vực này. Tháng 7/2009, Ngoại trưởng Hillary Clinton quay ngược lại chính sách của chính quyền Bush, ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (Treaty of Amity and Cooperation), tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ Mỹ và các nước Đông Nam Á. Cũng trong tháng 7/2009, bà đã tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Phuket, Thái Lan. Dịp này, bà Clinton tuyên bố: "nước Mỹ đã trở lại".

 

Tiến sĩ Richard Cronin, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm Henry L. Stimson, nói: "Tuyên bố của bà Clinton khẳng định mối quan ngại sự tham gia của Trung Quốc chứa ẩn nhiều nguy cơ khiến cho khu vực này ngày càng không ổn định, đặc biệt là lưu vực sông Mekong và vùng Biển Đông".

Trong chuyến công du Xinhapo và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) hồi tháng 11/2009, Tổng thống Obama đã họp với lãnh đạo các nước Đông Nam Á. Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên của một vị Tổng thống Mỹ với tất cả những người đứng đầu chính phủ các nước Đông Nam Á. Theo dự kiến, ông Obama sẽ có chuyến công du đến Inđônêxia và Ôxtrâylia vào cuối tháng 03/2010.

 

Phần lớn bản điều trần của Tiến sĩ Cronin bàn về quyết định xây dựng 8 đập thủy điện của Trung Quốc trên thượng nguồn sông Mekong. Ông cho rằng việc làm đó của nước này sẽ tàn phá môi trường đối với các nước ở hạ lưu sông Mekong gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Ông cũng quy trách nhiệm cho các nước ở vùng hạ lưu này về cách nhìn hẹp hòi trong việc đeo đuổi sự phát triển không bền vững về môi trường với kế hoạch xây dựng 13 đập nước trên dòng chảy chính vùng hạ lưu sông Mekong. Ông Cronin nói: "Các đập nước trên dòng chảy chính ở cả vùng thượng lưu tại Trung Quốc và hạ lưu tại Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam sẽ có ảnh hưởng lớn đối với con người và lương thực cũng như đời sống của những người sống trên vùng lưu vực sông Mekong". Theo ông, xây dựng các đập nước này không phù hợp với việc giữ gìn nguồn cá ảnh hưởng đến đời sống của nhiều người.

 

Khi bình luận về sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với các nước Đông Nam Á, ông Ernest Z. Bower làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (Center for Strategic and International Studies - CSIS), nói: "Nguồn tài chính của Trung Quốc thường sử dụng để xây dựng các dự án không cần thiết. Nó phục vụ cho những đòi hỏi về chính trị hơn là các nhu cầu thực tế. Các dự án này hỗ trợ cho các chính trị gia ở địa phương hơn là các nhu cầu thực tế"./.